Có thể khẳng định:
Lợi ích Quốc gia - dân tộc là một nguyên tắc cơ bản cốt lõi trong quan hệ đối
ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng,
cùng có lợi. Vì một Việt Nam phát triển, độc lập, tự chủ, giàu mạnh, hùng cường,
tin cậy và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
HOA GIẤY |
Chúng ta nhìn
nhận về lịch sử, có thể thấy quan hệ bang giao với các quốc gia khi đất nước được
độc lập, Việt Nam luôn thể hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực, tự
cường; giải quyết khôn khéo các vấn đề quốc tế, được sự đồng tình ủng hộ rất lớn
của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là trong hai Cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và chống Mỹ cứu nước; kể cả là chính nhân dân yêu chuộng hòa bình trong
chính quốc gia đó, đã góp phần đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này, đến
thắng lợi khác, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước; sau khi thông nhất cả nước tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế-xã hội, mặc dù đất nước ta gặp muôn vàn
khó khăn sau chiến tranh. Trong khi đó, nhân dân ta tiếp tục phải đối đầu với cuộc
chiến tranh vệ quốc bảo vệ biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam, đất nước bị
bao vây cấm vận kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng, kiệt quệ, lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất không phù hợp với yên cầu thực tiễn của cách mạng.
Năm 1986, Đại
hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá về những
sai lầm, khuyết điểm về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược
và tổ chức thực hiện, đặc biệt là bệnh chủ quan, duy ý chí, lạc hậu về nhận thức
lý luận. Từ thực tiễn Đại hội VI đã rút ra những bài học quan trọng, quán triệt
tư tưởng “lấy dân làm gốc”, đề ra đường
lối đổi mới đất nước, về cả tư duy, nhận thức và hành động, nhất là tư duy về phát
triển kinh tế xã hội, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất phù hợp với
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế nhiều thành phần, thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Sau 35 năm kiên trì đường lối đổi mới qua các kỳ Đại hội Đảng,
đất nước Việt Nam từ một quốc gia đói nghèo, lạc hậu vươn lên trở thành một quốc
gia có nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, trở thành quốc
gia có vị trí ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế, với tất cả các tiêu chí về chính
trị, kinh tế, xã hội nhất là về con người, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Có được kết quả trên:
Thứ nhất, đổi mới tư duy theo quan điểm “đa
phương hóa, đa dạng hóa” trong quan hệ đối ngoại, với mục tiêu “thêm bạn, bớt
thù”, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để
phát triển đất nước, trong đó dựa vào nội lực là chính. Sự phát triển tư duy đối
ngoại từ “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” của Đại hội VI đến “Việt
Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế” Đại hội VII, để nước ta hội nhập sâu, rộng vào cộng đồng quốc tế; đồng
thời đưa ra lý luận về nhận thức “đối tượng, đối tác” trong quan hệ quốc tế, nhất
là tư duy về kinh tế. Việt Nam chủ trương cùng với quá trình triển
khai các nội dung cụ thể trong đường lối đối ngoại với chủ trương hội nhập kinh
tế quốc tế, tư duy của Đảng về “bạn”, “thù” dần được hoàn thiện, thay thế bằng
cụm từ “đối tác”, “đối tượng” với nội hàm
cụ thể hơn, Đảng ta chỉ
rõ: “Đối tác của chúng ta là bất kể ai tôn trọng độc lập, chủ quyền,
mong muốn thiết lập và xây dựng quan hệ hữu nghị, bình đẳng, cùng có lợi với Việt
Nam; đối tượng ta cần kiên quyết đấu tranh là những ai tìm cách chống lại sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta. Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có những
mặt cần tranh thủ và trong một số đối tác vẫn có thể có những khác biệt, mâu
thuẫn với lợi ích của ta”. Đảng
ta tiếp tục khẳng định trong các kỳ Đại hội IX đến Đại hội XIII chủ trương nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực tự cường, nâng cao tư duy đối
ngoại “Việt Nam là bạn,
đối tác tin cậy, là
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, thể hiện rõ lập trường, bước đi vững chắc, thể
hiện vị thế, uy tín, tiềm lực kinh tế, trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng
quốc tế; các cam kết đó đều được cộng đồng quốc tế công nhận.
Thứ hai,
trong phát triển kinh tế xã hội đất nước luôn lấy mục tiêu phát triển nguồn
nhân lực, con người là trung tâm; tăng cường tiềm lực kinh tế gắn với tiềm lực
quốc phòng, an ninh; chú trọng công tác bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, an
sinh xã hội để phát triển đất nước.
Thứ ba, giải
quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế-xã hội gắn liền với công tác bảo vệ môi
trường, tài nguyên; phân bố giữa các vùng miền hợp lý để thúc đẩy kinh tế truyền
thống địa phương, với hiện đại và kinh tế xanh, bền vững.
Thứ tư, triển
khai đồng bộ các mục tiêu quốc gia hằng năm, nhiệm kỳ và giai đoạn, xây dựng lộ
trình để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước; đồng thời triển khai thực hiện
tốt các cam kết quốc tế về mục tiêu thiên niên kỷ đạt hiệu quả cao, đã góp phần
nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ năm, coi
trọng phát triển kinh tế-xã hội trong nước luôn gắn bó chặt chẽ với lợi ích của
nhân dân, tạo việc làm và thu nhập, nâng cao đời sống của người lao động; đồng
thời đồng hành cùng đất nước xây dựng mục tiêu chung. Chính phủ tham gia ký kết
hợp tác với các tổ chức thương mại quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư
vào Việt Nam hoặc đầu tư ra nước ngoài đều xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc
là tối thượng.
Để bảo đảm lợi
ích quốc gia dân tộc của Việt Nam trong Hội nhập kinh tế quốc tế cần phải hoàn
thiện thể chế kinh tế và pháp luật trên một số giải pháp sau:
1. Tiến
hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức
đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để
đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế quốc
tế, coi đó là nhu cầu, vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế nước ta, nâng cao
niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân dân ta chủ động hội nhập sâu, rộng kinh tế quốc tế.
2. Căn cứ Nghị
quyết của Đại hội XIII của Đảng về chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo, cũng như các quy định
của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng
thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các
doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh
tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả. Trong khi hình thành chiến lược hội nhập,
cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự phát triển của các ngành dịch vụ như tài
chính, ngân hàng, viễn thông,
giao thông vận tải, năng lượng và môi trường... là những lĩnh vực quan
trọng mà ta còn yếu kém.
3. Chủ động và khẩn
trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý
để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta,
ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và dịch
vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới, tạo ra những
ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hóa và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần
ngày càng lớn ở trong nước cũng như trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Tích cực tạo
lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình
thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công nghệ, vốn, bất động sản...;
tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế,
tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế,
đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng.
5. Có kế hoạch
cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực , vững vàng về chính
trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong
sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần
kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những tiêu chuẩn chung nói
trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh hiểu biết sâu
về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những chuyển biến
trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm được kỹ năng thương thuyết
và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó, cần hết sức coi trọng việc đào tạo đội
ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao.
6. Kết hợp
chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại. Cũng như trong
lĩnh vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh
tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hóa, đa dạng
hóa thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế. Các hoạt động
đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm
vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực
tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng,
cùng có lợi, bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.
7. Gắn kết
chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng ngay
từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện,
nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc
gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ quan quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch
chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình hội nhập.
8. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và
hoàn thiện hệ thống Luật pháp của Việt Nam bảo đảm tính đồng bộ cao, là cơ sở
pháp lý để quản lý kinh tế - xã hội; tạo hành lang thuận lợi để các thành phần
kinh tế trong nước phát triển, đồng thời có cơ chế hợp tác để doanh nghiệp Việt
Nam vươn ra đầu tư ra nước ngoài. Tích cực tham gia hội nhập sâu rộng vào các tổ
chức kinh tế mà Việt Nam tham gia như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); TPP, EVFTA, AFTA, APEC, ASEAN ….
9. Thường xuyên kiện toàn ủy
ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực, uy tín và thẩm quyền giúp Chính phủ tổ
chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế.
Việt Nam là một quốc gia gần 100 triệu dân, tỷ
lệ dân số trẻ cao, là một thị trường tiềm năng, cho các doanh nghiệp trong và
ngoài nước đầu tư phát triển kinh tế. Với lợi thế và tiềm năng lớn đang tạo thuận
lợi, cơ hội rất lớn cho đất nước hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, tuy nhiên song
thách thức cũng không hề
nhỏ. Đường lối đối ngoại
đúng đắn “Việt Nam là bạn,
là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, song phải
“Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong
tình hình mới, để sức mạnh
Việt Nam sẽ tiếp tục được tỏa sáng trên trường quốc tế. Đây sẽ là cơ sở vững chắc
cho phát huy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc,
dân chủ xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh thời đại để đẩy mạnh phát triển đất
nước nhanh và bền vững, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, sớm đưa nước ta
trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần to lớn thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.