Thứ Ba, 14 tháng 12, 2021

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM “LẤY DÂN LÀM GỐC” CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG XHCN HIỆN NAY

 

Quan điểm của Đảng ta chỉ rõ “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.

Đường nông thôn từ dự án 135


Cơ sở nào để Đảng ta có quan điểm “lấy dân làm gốc

- Xuất phát từ vai trò lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin đó là “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, như vậy chúng ta xác định quần chúng ở đây là Nhân dân, nói gọn là “Dân”. Lý luận Mác-Lênin cũng chỉ rõ Đảng Cộng sản là tổ chức tập hợp những người tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, chỉ là người xác định chủ trương, đường lối, còn Nhân dân mới là người thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng muốn tồn tại, phát triển và lãnh đạo được cách mạng trước hết cần phải xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn vì lợi ích của Nhân dân, khi đó Nhân dân sẽ tin Đảng, theo Đảng và bảo vệ Đảng. Nhân dân chính là lực lượng vật chất vô cùng to lớn, sức mạnh không có gì cản nổi, đó chính là sức mạnh tổng hợp. Như vậy, Đảng không có quần chúng nhân dân thì không thể lãnh đạo cách mạng thành công.

- Xuất phát từ tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là tư tưởng vì Nhân dân, vì con người. Theo Hồ Chí Minh, ở nước ta chủ nghĩa yêu nước có trước chủ nghĩa cộng sản, phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân, lòng dân thì có trước ý Đảng. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã mang trong mình yếu tố yêu nước, yếu tố dân tộc, xuất phát từ lòng yêu nước trong Nhân dân. Cho nên, khi có Đảng Nhân dân luôn tin theo, trung thành tuyệt đối và không có gì lay chuyển nổi. Theo Người, dựa vào nhân dân, đặt niềm tin vào lực lượng, trí tuệ của Nhân dân, đồng thời chăm lo cho đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn kết và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhân dân. Kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc, tinh hoa của nhân loại và nghiên cứu sâu sắc về Chủ nghĩa Mác-Lênin, chính Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vai trò, vị trí, sức mạnh to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Người đã dày công rèn luyện Đảng ta, các thế hệ cán bộ, đảng viên qua từng gia cách mạng, trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, xây dựng nền hòa bình lâu dài trong giai đoạn cách mạng mới.

- Xuất phát từ thực tiễn hoạt động cách mạng của Đảng đã biết dựa vào sức mạnh của nhân dân, biết tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp, lãnh đạo nhân dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành độc lập cho dân tộc ngày 02 tháng 9 năm 1945; lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến trường kỳ giữ vững nền độc lập, giành lại hòa bình năm 1954; lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi ngày 30 tháng 4 năm 1975. Mặc dù đất nước gặp muôn vàn khó khăn, thử thách, để giữ vững hòa bình và phát triển đất nước, Đảng ta thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tập hợp mọi lực lượng, sức dân, trí tuệ trong dân để cùng kiến thiết xây dựng lại đất nước sau chiến tranh.

- Xuất phát từ thực trạng hiện nay, như Đảng ta đã đánh giá… “biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ là rất nghiêm trọng; tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được đầy lùi”, đã làm xói mòn lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; “một số khuyết điểm, hạn chế kéo dài chậm được khắc phục” đã làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; “một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của Nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của Nhân dân bị vi phạm làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, để củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, với chế độ XHCN, cần phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng mối đoàn kết gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, để xây dựng đất nước phát triển, phồn vinh và hạnh phúc; đồng thời phái có ý chí vươn lên khát vọng xây dựng đất nước vững mạnh, hùng cường, sánh vai cùng bạn bè quốc tế.

Ngày nay, trước sự biến động không ngừng của thế giới, quy luật vận động của vật chất là tất yếu. Tuy nhiên, để đất nước phát triển nhanh, bền vững, theo kịp các nước phát triển, Nghị quyết Đại hội XIII đã xác định mục tiêu “đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.

Để đạt được mục tiêu đó, trước hết, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đều phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tạo thuận lợi để mọi người dân tham gia phát triển kinh tế, làm giàu, đóng góp hiệu quả cho kinh tế đất nước. Thực hiện hiệu quả bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, từ Trung ương đến cơ sở xây dựng hệ thống hành chính công phục vụ Nhân dân; tập trung giải quyết, tháo gỡ vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng mà Nhân dân quan tâm, nhất là vấn đề an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, lợi ích, việc làm, môi trường; xử lý nghiêm tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Thực hiện tốt những nội dung trên, chắc chắn chúng ta sẽ tập hợp, đoàn kết được Nhân dân tin Đảng, xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, là động lực quan trọng để Đảng ta đề ra đường lối đúng đắn xây dựng đất nước vững mạnh, phồn vinh, hạnh phúc và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Bài và ảnh: Vi Đồng

 

Thứ Năm, 2 tháng 12, 2021

NƯỚC NGA HÙNG CƯỜNG SẼ CÓ LỢI CHO HÒA BÌNH THẾ GIỚI

 


Thành phố Matxcơva của Nga

Sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga đã phát triển một cách ngoạn mục, trở thành một quốc gia hùng mạnh, là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng XHCN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống áp bức, bóc lột, nhất là phong trào cách mạng ở các quốc gia thuộc địa. Chiến tranh Thế giới thứ II nổ ra, nước Nga lại phải đương đầu với một thử thách vô cùng khắc nghiệt, nhưng cuối cùng Hồng quân Liên Xô và các nước đồng minh đã đánh bại chủ nghĩa phát xít, chấm dứt Chiến tranh Thế giới thứ II, cứu nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít, bảo vệ nền hòa bình thế giới. Sau chiến thắng phát xít, một loạt các nước XHCN ở Đông Âu ra đời tạo thành một Khối hiệp ước vững chắc để bảo vệ hòa bình thế giới, là chỗ dựa tinh thần cho cách mạng XHCN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nhiều quốc gia từ thân phận nô lệ, thuộc địa đã đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam giành được độc lập bằng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, từ tay phát xít Nhật.


Xe tăng T34 của Nga

Liên Xô đã khôi phục đất nước sau chiến tranh, phát triển vượt bậc nhiều thành tựu về chính trị, kinh tế, xã hội, nhanh chóng trở thành trở thanh cường quốc, ngang tầm với Mỹ; đồng thời là thành trì, chỗ dựa vững chắc cho lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, đấu tranh chống áp bức, cường quyền trên phạm vi toàn thế giới. Liên Xô cũng đã giúp đỡ nhiều quốc gia, đóng vai trò kiến tạo hòa bình, để các quốc gia thuộc địa có cơ hội đứng lên chống lại áp bức, bóc lột, giải phóng đất nước, giải phóng giai cấp giành lại độc lập. Liên Xô cũng đã đứng ra tập hợp lực lượng, hỗ trợ các nước, tổ chức giúp đào tạo nhân lực, nhất là đội ngũ cán bộ cho các quốc gia có tư tưởng tiến bộ, gây dựng phong trào; hỗ trợ vũ khí, trang bị cho các nước anh em trong phe XHCN nhằm chống lại áp bức, cường quyền, chống xâm lược.

Liên Xô lớn mạnh, hùng cường, có đầy đủ tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự trên phạm vi toàn thế giới, vị thế cường quốc quân sự đã tạo thêm niềm tin đồng thời hành động có trách nhiệm với các nước XHCN anh em. Đặc biệt là quan hệ hợp tác hữu nghị với Việt Nam, đã giúp nhân dân Việt Nam giành lại hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, giúp nhân dân Việt Nam khôi phục lại đất nước sau chiến tranh, phát triển đất nước, đó là những đặc ân mà Liên Xô đã giành cho Việt Nam. Nhiều công trình hữu nghị đã được xây dựng trên dải đất nước hình chữ S của chúng ta, mang đậm nét tình đoàn kết anh em XHCN.


Vũ khí trang bị của Nga

Tuy nhiên, trong thập niên 90 của thế kỷ XX, có lẽ bất kể người Việt Nam nào cũng đều cảm nhận được một nỗi đau lớn chưa từng có, đó là sự kiện chấn động thế giới Liên bang Xô viết XHCN Liên Xô sụp đổ, Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã. Trên đài phát thanh khi ấy, chuyên mục thời sự tôi được nghe “có những đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô, ngồi ngay ở Quảng trưởng Đỏ, rút tấm thẻ Đảng viên trong túi ra, họ ngang nhiên châm lửa đốt bỏ”. Khi ấy, tôi là chàng trai vừa tốt nghiệp Trung học phổ thông, chưa hiểu nhiều gì về chính trị (có thể ai đó đọc được dòng cảm nhận này của tôi thì sẽ biết được điều đó), càng về sau, khi nghe những người lão thành cách mạng ở địa phương kể về những câu chuyện thời sự, tôi càng hiểu ra là “Không có nỗi đau nào bằng sự tan rã của một Đảng Cộng sản cầm quyền ở một quốc gia rộng lớn nhất thế giới đó lại là Liên Bang Cộng hòa XHCN Xô Viết Liên Xô”, các nước yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới mất đi một chỗ dựa, mất đi một thành trì của Hệ thống XHCN; cách mạng XHCN, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào.

Nước Nga kế thừa những di sản còn lại của Liên Xô tan rã, đứng mũi chịu sào, giải quyết các vấn đề quốc tế, trong thế yếu ớt, nội bộ, chính trị, xã hội chia rẽ, cuộc sống của nhân dân Nga lao dốc không phanh, khó khăn chồng chất, đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức, nước Nga tiếng nói không còn được coi trọng trong cộng đồng quốc tế, đứng ở vị trí thứ yếu. Đứng trước những khó khăn thách thức toàn cầu, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là phương Tây và Mỹ đã lũng đoạn thế giới, gây chiến khắp nơi.

Sau hơn 20 năm, Tổng thống V.Putin lên nắm quyền lãnh đạo đất nước, đoàn kết dân tộc, khôi phục lại tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao; đời sống nhân dân Nga từng bước được cải thiện, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, ổn định về chính trị, phát triển nhanh chóng về tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, lãnh thổ. Đến nay, nước Nga trở lại vị thế là một cường quốc cả về chính trị, quân sự, an ninh và kinh tế, đóng góp ngày càng thực chất vào công cuộc kiến tạo hòa bình thế giới trong thời kỳ mới. Chính sự phát triển của nước Nga hùng cường, mạnh mẽ, hành động có trách nhiệm trong cộng đồng thế giới, lấy lại vị thế là một cường quốc như Liên Xô trước đây, đã đóng góp quan trọng, là chỗ dựa vững chắc cho các nước yêu chuộng hòa bình, lực lượng tiến bộ trên thế giới; đồng thời ngăn chặn hiệu quả nguy cơ chiến chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới.


Vũ khí trang bị Nga duyệt binh

Có thể khẳng định nước Nga ngày nay đối với thế giới có vai trò hết sức quan trọng trong giải quyết các vấn đề quốc tế như: an ninh phi truyền thống, kinh tế, dịch bệnh, năng lượng, xung đột vũ trang, phi hạt nhân hóa, khủng hoảng chính trị. Tuy nhiên, khó khăn chính nổi lên là: Mỹ và các nước phương Tây tiếp tục thực hiện chính sách cấm vận, bao vây kinh tế, cô lập về chính trị, ngoại giao, răn đe quân sự… trong thế giới đa cực, biến động không ngừng. Thiết nghĩ, trong những năm tới Nga sẽ vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục giữ vai trò đối tác chiến lược quan trọng trong Khu vực và toàn cầu, giữ vững vị thế cường quốc. Đóng góp quan trọng vào việc ngăn chặn hiệu quả nguy cơ chiến chiến tranh, bảo vệ và duy trì hòa bình thế giới./.

Cảm nhận tháng 12/2021

Bài và Ảnh: Vi Đồng


Thứ Năm, 18 tháng 11, 2021

LỢI ÍCH QUỐC GIA-DÂN TỘC

 


Có thể khẳng định: Lợi ích Quốc gia - dân tộc là một nguyên tắc cơ bản cốt lõi trong quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Vì một Việt Nam phát triển, độc lập, tự chủ, giàu mạnh, hùng cường, tin cậy và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

HOA GIẤY

Chúng ta nhìn nhận về lịch sử, có thể thấy quan hệ bang giao với các quốc gia khi đất nước được độc lập, Việt Nam luôn thể hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực, tự cường; giải quyết khôn khéo các vấn đề quốc tế, được sự đồng tình ủng hộ rất lớn của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là trong hai Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước; kể cả là chính nhân dân yêu chuộng hòa bình trong chính quốc gia đó, đã góp phần đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này, đến thắng lợi khác, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước; sau khi thông nhất cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế-xã hội, mặc dù đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn sau chiến tranh. Trong khi đó, nhân dân ta tiếp tục phải đối đầu với cuộc chiến tranh vệ quốc bảo vệ biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam, đất nước bị bao vây cấm vận kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng, kiệt quệ, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phù hợp với yên cầu thực tiễn của cách mạng.

Năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá về những sai lầm, khuyết điểm về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đặc biệt là bệnh chủ quan, duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận. Từ thực tiễn Đại hội VI đã rút ra những bài học quan trọng, quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, đề  ra đường lối đổi mới đất nước, về cả tư duy, nhận thức và hành động, nhất là tư duy về phát triển kinh tế xã hội, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế nhiều thành phần, thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 35 năm kiên trì đường lối đổi mới qua các kỳ Đại hội Đảng, đất nước Việt Nam từ một quốc gia đói nghèo, lạc hậu vươn lên trở thành một quốc gia có nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, trở thành quốc gia có vị trí ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế, với tất cả các tiêu chí về chính trị, kinh tế, xã hội nhất là về con người, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Có được kết quả trên:

Thứ nhất, đổi mới tư duy theo quan điểm “đa phương hóa, đa dạng hóa” trong quan hệ đối ngoại, với mục tiêu “thêm bạn, bớt thù”, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để phát triển đất nước, trong đó dựa vào nội lực là chính. Sự phát triển tư duy đối ngoại từ “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” của Đại hội VI đến “Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” Đại hội VII, để nước ta hội nhập sâu, rộng vào cộng đồng quốc tế; đồng thời đưa ra lý luận về nhận thức “đối tượng, đối tác” trong quan hệ quốc tế, nhất là tư duy về kinh tế. Việt Nam chủ trương cùng với quá trình triển khai các nội dung cụ thể trong đường lối đối ngoại với chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, tư duy của Đảng về “bạn”, “thù” dần được hoàn thiện, thay thế bằng cụm từ “đối tác”, “đối tượng” với nội hàm cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ: “Đối tác của chúng ta là bất kể ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, mong muốn thiết lập và xây dựng quan hệ hữu nghị, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam; đối tượng ta cần kiên quyết đấu tranh là những ai tìm cách chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta. Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có những mặt cần tranh thủ và trong một số đối tác vẫn có thể có những khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”. Đảng ta tiếp tục khẳng định trong các kỳ Đại hội IX đến Đại hội XIII chủ trương nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực tự cường, nâng cao tư duy đối ngoại “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, thể hiện rõ lập trường, bước đi vững chắc, thể hiện vị thế, uy tín, tiềm lực kinh tế, trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế; các cam kết đó đều được cộng đồng quốc tế công nhận.

Thứ hai, trong phát triển kinh tế xã hội đất nước luôn lấy mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, con người là trung tâm; tăng cường tiềm lực kinh tế gắn với tiềm lực quốc phòng, an ninh; chú trọng công tác bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, an sinh xã hội để phát triển đất nước.

Thứ ba, giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế-xã hội gắn liền với công tác bảo vệ môi trường, tài nguyên; phân bố giữa các vùng miền hợp lý để thúc đẩy kinh tế truyền thống địa phương, với hiện đại và kinh tế xanh, bền vững.

Thứ tư, triển khai đồng bộ các mục tiêu quốc gia hằng năm, nhiệm kỳ và giai đoạn, xây dựng lộ trình để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước; đồng thời triển khai thực hiện tốt các cam kết quốc tế về mục tiêu thiên niên kỷ đạt hiệu quả cao, đã góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ năm, coi trọng phát triển kinh tế-xã hội trong nước luôn gắn bó chặt chẽ với lợi ích của nhân dân, tạo việc làm và thu nhập, nâng cao đời sống của người lao động; đồng thời đồng hành cùng đất nước xây dựng mục tiêu chung. Chính phủ tham gia ký kết hợp tác với các tổ chức thương mại quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam hoặc đầu tư ra nước ngoài đều xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng.

Để bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc của Việt Nam trong Hội nhập kinh tế quốc tế cần phải hoàn thiện thể chế kinh tế và pháp luật trên một số giải pháp sau:

1. Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là nhu cầu, vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân dân ta chủ động hội nhập sâu, rộng kinh tế quốc tế.

2. Căn cứ Nghị quyết của Đại hội XIII của Đảng về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo, cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả. Trong khi hình thành chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự phát triển của các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải, năng lượng và môi trường... là những lĩnh vực quan trọng mà ta còn yếu kém.

3. Chủ động và khẩn trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hóa và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn ở trong nước cũng như trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

4. Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công nghệ, vốn, bất động sản...; tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng.

5. Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực , vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những tiêu chuẩn chung nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm được kỹ năng thương thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó, cần hết sức coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao.

6. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại. Cũng như trong lĩnh vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi, bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.

7. Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ quan quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình hội nhập.

8. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống Luật pháp của Việt Nam bảo đảm tính đồng bộ cao, là cơ sở pháp lý để quản lý kinh tế - xã hội; tạo hành lang thuận lợi để các thành phần kinh tế trong nước phát triển, đồng thời có cơ chế hợp tác để doanh nghiệp Việt Nam vươn ra đầu tư ra nước ngoài. Tích cực tham gia hội nhập sâu rộng vào các tổ chức kinh tế mà Việt Nam tham gia như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); TPP, EVFTA, AFTA, APEC, ASEAN .

9. Thường xuyên kiện toàn ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực, uy tín và thẩm quyền giúp Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế.

Việt Nam là một quốc gia gần 100 triệu dân, tỷ lệ dân số trẻ cao, là một thị trường tiềm năng, cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển kinh tế. Với lợi thế và tiềm năng lớn đang tạo thuận lợi, cơ hội rất lớn cho đất nước hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, tuy nhiên song thách thức cũng không hề nhỏ. Đường lối đối ngoại đúng đắn “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, song phải “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong tình hình mới, để sức mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục được tỏa sáng trên trường quốc tế. Đây sẽ là cơ sở vững chắc cho phát huy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh thời đại để đẩy mạnh phát triển đất nước nhanh và bền vững, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 Bài Vi Đồng

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM “LẤY DÂN LÀM GỐC” CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG XHCN HIỆN NAY

  Quan điểm của Đảng ta chỉ rõ “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi l...