Thứ Ba, 14 tháng 12, 2021

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM “LẤY DÂN LÀM GỐC” CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG XHCN HIỆN NAY

 

Quan điểm của Đảng ta chỉ rõ “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.

Đường nông thôn từ dự án 135


Cơ sở nào để Đảng ta có quan điểm “lấy dân làm gốc

- Xuất phát từ vai trò lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin đó là “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, như vậy chúng ta xác định quần chúng ở đây là Nhân dân, nói gọn là “Dân”. Lý luận Mác-Lênin cũng chỉ rõ Đảng Cộng sản là tổ chức tập hợp những người tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, chỉ là người xác định chủ trương, đường lối, còn Nhân dân mới là người thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng muốn tồn tại, phát triển và lãnh đạo được cách mạng trước hết cần phải xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn vì lợi ích của Nhân dân, khi đó Nhân dân sẽ tin Đảng, theo Đảng và bảo vệ Đảng. Nhân dân chính là lực lượng vật chất vô cùng to lớn, sức mạnh không có gì cản nổi, đó chính là sức mạnh tổng hợp. Như vậy, Đảng không có quần chúng nhân dân thì không thể lãnh đạo cách mạng thành công.

- Xuất phát từ tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là tư tưởng vì Nhân dân, vì con người. Theo Hồ Chí Minh, ở nước ta chủ nghĩa yêu nước có trước chủ nghĩa cộng sản, phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân, lòng dân thì có trước ý Đảng. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã mang trong mình yếu tố yêu nước, yếu tố dân tộc, xuất phát từ lòng yêu nước trong Nhân dân. Cho nên, khi có Đảng Nhân dân luôn tin theo, trung thành tuyệt đối và không có gì lay chuyển nổi. Theo Người, dựa vào nhân dân, đặt niềm tin vào lực lượng, trí tuệ của Nhân dân, đồng thời chăm lo cho đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn kết và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhân dân. Kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc, tinh hoa của nhân loại và nghiên cứu sâu sắc về Chủ nghĩa Mác-Lênin, chính Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vai trò, vị trí, sức mạnh to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Người đã dày công rèn luyện Đảng ta, các thế hệ cán bộ, đảng viên qua từng gia cách mạng, trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, xây dựng nền hòa bình lâu dài trong giai đoạn cách mạng mới.

- Xuất phát từ thực tiễn hoạt động cách mạng của Đảng đã biết dựa vào sức mạnh của nhân dân, biết tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp, lãnh đạo nhân dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành độc lập cho dân tộc ngày 02 tháng 9 năm 1945; lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến trường kỳ giữ vững nền độc lập, giành lại hòa bình năm 1954; lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi ngày 30 tháng 4 năm 1975. Mặc dù đất nước gặp muôn vàn khó khăn, thử thách, để giữ vững hòa bình và phát triển đất nước, Đảng ta thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tập hợp mọi lực lượng, sức dân, trí tuệ trong dân để cùng kiến thiết xây dựng lại đất nước sau chiến tranh.

- Xuất phát từ thực trạng hiện nay, như Đảng ta đã đánh giá… “biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ là rất nghiêm trọng; tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được đầy lùi”, đã làm xói mòn lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; “một số khuyết điểm, hạn chế kéo dài chậm được khắc phục” đã làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; “một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của Nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của Nhân dân bị vi phạm làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, để củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, với chế độ XHCN, cần phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng mối đoàn kết gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, để xây dựng đất nước phát triển, phồn vinh và hạnh phúc; đồng thời phái có ý chí vươn lên khát vọng xây dựng đất nước vững mạnh, hùng cường, sánh vai cùng bạn bè quốc tế.

Ngày nay, trước sự biến động không ngừng của thế giới, quy luật vận động của vật chất là tất yếu. Tuy nhiên, để đất nước phát triển nhanh, bền vững, theo kịp các nước phát triển, Nghị quyết Đại hội XIII đã xác định mục tiêu “đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.

Để đạt được mục tiêu đó, trước hết, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đều phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tạo thuận lợi để mọi người dân tham gia phát triển kinh tế, làm giàu, đóng góp hiệu quả cho kinh tế đất nước. Thực hiện hiệu quả bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, từ Trung ương đến cơ sở xây dựng hệ thống hành chính công phục vụ Nhân dân; tập trung giải quyết, tháo gỡ vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng mà Nhân dân quan tâm, nhất là vấn đề an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, lợi ích, việc làm, môi trường; xử lý nghiêm tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Thực hiện tốt những nội dung trên, chắc chắn chúng ta sẽ tập hợp, đoàn kết được Nhân dân tin Đảng, xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, là động lực quan trọng để Đảng ta đề ra đường lối đúng đắn xây dựng đất nước vững mạnh, phồn vinh, hạnh phúc và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Bài và ảnh: Vi Đồng

 

Thứ Năm, 2 tháng 12, 2021

NƯỚC NGA HÙNG CƯỜNG SẼ CÓ LỢI CHO HÒA BÌNH THẾ GIỚI

 


Thành phố Matxcơva của Nga

Sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga đã phát triển một cách ngoạn mục, trở thành một quốc gia hùng mạnh, là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng XHCN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống áp bức, bóc lột, nhất là phong trào cách mạng ở các quốc gia thuộc địa. Chiến tranh Thế giới thứ II nổ ra, nước Nga lại phải đương đầu với một thử thách vô cùng khắc nghiệt, nhưng cuối cùng Hồng quân Liên Xô và các nước đồng minh đã đánh bại chủ nghĩa phát xít, chấm dứt Chiến tranh Thế giới thứ II, cứu nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít, bảo vệ nền hòa bình thế giới. Sau chiến thắng phát xít, một loạt các nước XHCN ở Đông Âu ra đời tạo thành một Khối hiệp ước vững chắc để bảo vệ hòa bình thế giới, là chỗ dựa tinh thần cho cách mạng XHCN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nhiều quốc gia từ thân phận nô lệ, thuộc địa đã đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam giành được độc lập bằng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, từ tay phát xít Nhật.


Xe tăng T34 của Nga

Liên Xô đã khôi phục đất nước sau chiến tranh, phát triển vượt bậc nhiều thành tựu về chính trị, kinh tế, xã hội, nhanh chóng trở thành trở thanh cường quốc, ngang tầm với Mỹ; đồng thời là thành trì, chỗ dựa vững chắc cho lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, đấu tranh chống áp bức, cường quyền trên phạm vi toàn thế giới. Liên Xô cũng đã giúp đỡ nhiều quốc gia, đóng vai trò kiến tạo hòa bình, để các quốc gia thuộc địa có cơ hội đứng lên chống lại áp bức, bóc lột, giải phóng đất nước, giải phóng giai cấp giành lại độc lập. Liên Xô cũng đã đứng ra tập hợp lực lượng, hỗ trợ các nước, tổ chức giúp đào tạo nhân lực, nhất là đội ngũ cán bộ cho các quốc gia có tư tưởng tiến bộ, gây dựng phong trào; hỗ trợ vũ khí, trang bị cho các nước anh em trong phe XHCN nhằm chống lại áp bức, cường quyền, chống xâm lược.

Liên Xô lớn mạnh, hùng cường, có đầy đủ tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự trên phạm vi toàn thế giới, vị thế cường quốc quân sự đã tạo thêm niềm tin đồng thời hành động có trách nhiệm với các nước XHCN anh em. Đặc biệt là quan hệ hợp tác hữu nghị với Việt Nam, đã giúp nhân dân Việt Nam giành lại hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, giúp nhân dân Việt Nam khôi phục lại đất nước sau chiến tranh, phát triển đất nước, đó là những đặc ân mà Liên Xô đã giành cho Việt Nam. Nhiều công trình hữu nghị đã được xây dựng trên dải đất nước hình chữ S của chúng ta, mang đậm nét tình đoàn kết anh em XHCN.


Vũ khí trang bị của Nga

Tuy nhiên, trong thập niên 90 của thế kỷ XX, có lẽ bất kể người Việt Nam nào cũng đều cảm nhận được một nỗi đau lớn chưa từng có, đó là sự kiện chấn động thế giới Liên bang Xô viết XHCN Liên Xô sụp đổ, Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã. Trên đài phát thanh khi ấy, chuyên mục thời sự tôi được nghe “có những đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô, ngồi ngay ở Quảng trưởng Đỏ, rút tấm thẻ Đảng viên trong túi ra, họ ngang nhiên châm lửa đốt bỏ”. Khi ấy, tôi là chàng trai vừa tốt nghiệp Trung học phổ thông, chưa hiểu nhiều gì về chính trị (có thể ai đó đọc được dòng cảm nhận này của tôi thì sẽ biết được điều đó), càng về sau, khi nghe những người lão thành cách mạng ở địa phương kể về những câu chuyện thời sự, tôi càng hiểu ra là “Không có nỗi đau nào bằng sự tan rã của một Đảng Cộng sản cầm quyền ở một quốc gia rộng lớn nhất thế giới đó lại là Liên Bang Cộng hòa XHCN Xô Viết Liên Xô”, các nước yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới mất đi một chỗ dựa, mất đi một thành trì của Hệ thống XHCN; cách mạng XHCN, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào.

Nước Nga kế thừa những di sản còn lại của Liên Xô tan rã, đứng mũi chịu sào, giải quyết các vấn đề quốc tế, trong thế yếu ớt, nội bộ, chính trị, xã hội chia rẽ, cuộc sống của nhân dân Nga lao dốc không phanh, khó khăn chồng chất, đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức, nước Nga tiếng nói không còn được coi trọng trong cộng đồng quốc tế, đứng ở vị trí thứ yếu. Đứng trước những khó khăn thách thức toàn cầu, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là phương Tây và Mỹ đã lũng đoạn thế giới, gây chiến khắp nơi.

Sau hơn 20 năm, Tổng thống V.Putin lên nắm quyền lãnh đạo đất nước, đoàn kết dân tộc, khôi phục lại tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao; đời sống nhân dân Nga từng bước được cải thiện, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, ổn định về chính trị, phát triển nhanh chóng về tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, lãnh thổ. Đến nay, nước Nga trở lại vị thế là một cường quốc cả về chính trị, quân sự, an ninh và kinh tế, đóng góp ngày càng thực chất vào công cuộc kiến tạo hòa bình thế giới trong thời kỳ mới. Chính sự phát triển của nước Nga hùng cường, mạnh mẽ, hành động có trách nhiệm trong cộng đồng thế giới, lấy lại vị thế là một cường quốc như Liên Xô trước đây, đã đóng góp quan trọng, là chỗ dựa vững chắc cho các nước yêu chuộng hòa bình, lực lượng tiến bộ trên thế giới; đồng thời ngăn chặn hiệu quả nguy cơ chiến chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới.


Vũ khí trang bị Nga duyệt binh

Có thể khẳng định nước Nga ngày nay đối với thế giới có vai trò hết sức quan trọng trong giải quyết các vấn đề quốc tế như: an ninh phi truyền thống, kinh tế, dịch bệnh, năng lượng, xung đột vũ trang, phi hạt nhân hóa, khủng hoảng chính trị. Tuy nhiên, khó khăn chính nổi lên là: Mỹ và các nước phương Tây tiếp tục thực hiện chính sách cấm vận, bao vây kinh tế, cô lập về chính trị, ngoại giao, răn đe quân sự… trong thế giới đa cực, biến động không ngừng. Thiết nghĩ, trong những năm tới Nga sẽ vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục giữ vai trò đối tác chiến lược quan trọng trong Khu vực và toàn cầu, giữ vững vị thế cường quốc. Đóng góp quan trọng vào việc ngăn chặn hiệu quả nguy cơ chiến chiến tranh, bảo vệ và duy trì hòa bình thế giới./.

Cảm nhận tháng 12/2021

Bài và Ảnh: Vi Đồng


Thứ Năm, 18 tháng 11, 2021

LỢI ÍCH QUỐC GIA-DÂN TỘC

 


Có thể khẳng định: Lợi ích Quốc gia - dân tộc là một nguyên tắc cơ bản cốt lõi trong quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Vì một Việt Nam phát triển, độc lập, tự chủ, giàu mạnh, hùng cường, tin cậy và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

HOA GIẤY

Chúng ta nhìn nhận về lịch sử, có thể thấy quan hệ bang giao với các quốc gia khi đất nước được độc lập, Việt Nam luôn thể hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực, tự cường; giải quyết khôn khéo các vấn đề quốc tế, được sự đồng tình ủng hộ rất lớn của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là trong hai Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước; kể cả là chính nhân dân yêu chuộng hòa bình trong chính quốc gia đó, đã góp phần đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này, đến thắng lợi khác, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước; sau khi thông nhất cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế-xã hội, mặc dù đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn sau chiến tranh. Trong khi đó, nhân dân ta tiếp tục phải đối đầu với cuộc chiến tranh vệ quốc bảo vệ biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam, đất nước bị bao vây cấm vận kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng, kiệt quệ, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phù hợp với yên cầu thực tiễn của cách mạng.

Năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá về những sai lầm, khuyết điểm về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đặc biệt là bệnh chủ quan, duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận. Từ thực tiễn Đại hội VI đã rút ra những bài học quan trọng, quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, đề  ra đường lối đổi mới đất nước, về cả tư duy, nhận thức và hành động, nhất là tư duy về phát triển kinh tế xã hội, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế nhiều thành phần, thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 35 năm kiên trì đường lối đổi mới qua các kỳ Đại hội Đảng, đất nước Việt Nam từ một quốc gia đói nghèo, lạc hậu vươn lên trở thành một quốc gia có nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, trở thành quốc gia có vị trí ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế, với tất cả các tiêu chí về chính trị, kinh tế, xã hội nhất là về con người, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Có được kết quả trên:

Thứ nhất, đổi mới tư duy theo quan điểm “đa phương hóa, đa dạng hóa” trong quan hệ đối ngoại, với mục tiêu “thêm bạn, bớt thù”, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để phát triển đất nước, trong đó dựa vào nội lực là chính. Sự phát triển tư duy đối ngoại từ “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” của Đại hội VI đến “Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” Đại hội VII, để nước ta hội nhập sâu, rộng vào cộng đồng quốc tế; đồng thời đưa ra lý luận về nhận thức “đối tượng, đối tác” trong quan hệ quốc tế, nhất là tư duy về kinh tế. Việt Nam chủ trương cùng với quá trình triển khai các nội dung cụ thể trong đường lối đối ngoại với chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, tư duy của Đảng về “bạn”, “thù” dần được hoàn thiện, thay thế bằng cụm từ “đối tác”, “đối tượng” với nội hàm cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ: “Đối tác của chúng ta là bất kể ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, mong muốn thiết lập và xây dựng quan hệ hữu nghị, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam; đối tượng ta cần kiên quyết đấu tranh là những ai tìm cách chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta. Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có những mặt cần tranh thủ và trong một số đối tác vẫn có thể có những khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”. Đảng ta tiếp tục khẳng định trong các kỳ Đại hội IX đến Đại hội XIII chủ trương nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực tự cường, nâng cao tư duy đối ngoại “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, thể hiện rõ lập trường, bước đi vững chắc, thể hiện vị thế, uy tín, tiềm lực kinh tế, trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế; các cam kết đó đều được cộng đồng quốc tế công nhận.

Thứ hai, trong phát triển kinh tế xã hội đất nước luôn lấy mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, con người là trung tâm; tăng cường tiềm lực kinh tế gắn với tiềm lực quốc phòng, an ninh; chú trọng công tác bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, an sinh xã hội để phát triển đất nước.

Thứ ba, giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế-xã hội gắn liền với công tác bảo vệ môi trường, tài nguyên; phân bố giữa các vùng miền hợp lý để thúc đẩy kinh tế truyền thống địa phương, với hiện đại và kinh tế xanh, bền vững.

Thứ tư, triển khai đồng bộ các mục tiêu quốc gia hằng năm, nhiệm kỳ và giai đoạn, xây dựng lộ trình để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước; đồng thời triển khai thực hiện tốt các cam kết quốc tế về mục tiêu thiên niên kỷ đạt hiệu quả cao, đã góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ năm, coi trọng phát triển kinh tế-xã hội trong nước luôn gắn bó chặt chẽ với lợi ích của nhân dân, tạo việc làm và thu nhập, nâng cao đời sống của người lao động; đồng thời đồng hành cùng đất nước xây dựng mục tiêu chung. Chính phủ tham gia ký kết hợp tác với các tổ chức thương mại quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam hoặc đầu tư ra nước ngoài đều xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng.

Để bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc của Việt Nam trong Hội nhập kinh tế quốc tế cần phải hoàn thiện thể chế kinh tế và pháp luật trên một số giải pháp sau:

1. Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là nhu cầu, vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân dân ta chủ động hội nhập sâu, rộng kinh tế quốc tế.

2. Căn cứ Nghị quyết của Đại hội XIII của Đảng về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo, cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả. Trong khi hình thành chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự phát triển của các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải, năng lượng và môi trường... là những lĩnh vực quan trọng mà ta còn yếu kém.

3. Chủ động và khẩn trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hóa và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn ở trong nước cũng như trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

4. Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công nghệ, vốn, bất động sản...; tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng.

5. Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực , vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những tiêu chuẩn chung nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm được kỹ năng thương thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó, cần hết sức coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao.

6. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại. Cũng như trong lĩnh vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi, bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.

7. Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ quan quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình hội nhập.

8. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống Luật pháp của Việt Nam bảo đảm tính đồng bộ cao, là cơ sở pháp lý để quản lý kinh tế - xã hội; tạo hành lang thuận lợi để các thành phần kinh tế trong nước phát triển, đồng thời có cơ chế hợp tác để doanh nghiệp Việt Nam vươn ra đầu tư ra nước ngoài. Tích cực tham gia hội nhập sâu rộng vào các tổ chức kinh tế mà Việt Nam tham gia như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); TPP, EVFTA, AFTA, APEC, ASEAN .

9. Thường xuyên kiện toàn ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực, uy tín và thẩm quyền giúp Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế.

Việt Nam là một quốc gia gần 100 triệu dân, tỷ lệ dân số trẻ cao, là một thị trường tiềm năng, cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển kinh tế. Với lợi thế và tiềm năng lớn đang tạo thuận lợi, cơ hội rất lớn cho đất nước hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, tuy nhiên song thách thức cũng không hề nhỏ. Đường lối đối ngoại đúng đắn “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, song phải “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong tình hình mới, để sức mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục được tỏa sáng trên trường quốc tế. Đây sẽ là cơ sở vững chắc cho phát huy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh thời đại để đẩy mạnh phát triển đất nước nhanh và bền vững, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 Bài Vi Đồng

Thứ Hai, 11 tháng 10, 2021

RÁC VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

  

Để mỗi người bảo vệ sức khỏe có lẽ điều quan tâm không phải là vật chất cao sang gì mà chỉ cần mỗi ngày được hít thở bầu không khí trong lành, tận hưởng cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, đó là điều mong ước chung của mỗi chúng ta, hãy trân quý cuộc sống khi chúng ta còn có thể. 

Trồng Hoa cây cảnh

Tuy nhiên, rác thải là một vấn đề môi trường cần được đề cập một cách nghiêm túc. Trong thời gian gần đây, rác thải nói chung, rác thải sinh hoạt nói riêng đang là vấn đề nóng trong công tác bảo vệ môi trường sống hiện nay. Nếu như cuộc sống của chúng ta có nhiều mối đe dọa, nhưng có lẽ mối đe dọa hiện hữu nhất, trong đời sống không gì khác chính là Rác.

Rác có thể phân ra nhiều loại như: rác thải công nghiệp, rác thải nông nghiệp, rác thải Y tế, rác thải xây dựng, rác thải sinh hoạt…, trong đó rác thải sinh hoạt là vấn đề chúng ta bàn tới và tìm giải pháp bức thiết nhất. Rác sinh hoạt được phân ra nhiều dạng khác nhau trong đó có rác vô cơ và rác hữu cơ. Đối với rác vô cơ nếu biết phân loại thì xử lý chúng có thể tái chế, hoặc sử dụng các phương pháp nhiệt để thay đổi trạng thái, tính chất của chúng, nhược điểm lớn nhất đó là khi xử lý rác vô cơ chúng ta thường tiêu tốn nhiều năng lượng, công sức, giải pháp khó hơn… đối với rác hữu cơ việc xử lý cũng rất thuận lợi nếu biết phân loại từ nguồn, có thể tận dụng để làm phân bón hữu cơ, tiêu hủy dễ dàng hơn rác vô cơ, đỡ tiêu tốn năng lượng, công sức hơn và đem lại môi trường sinh thái sạch hơn.

Vấn đề đặt ra, các trạng thái xử lý rác vô cơ khi chúng ta sử dụng phương pháp nhiệt thì thường tạo ra các loại độc tố nguy hại, để loại bỏ các độc tố đó buộc phải chi phí lớn, tiêu tốn nhiều năng lượng; nếu chuyển hóa sang một trạng thái khác thành các sản phẩm an toàn hơn, thì nguy cơ những sản phẩm cuối cùng của nó sẽ không còn khả năng phân hủy, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, sinh thái.

Hiện nay, đa số các công ty môi trường đang sử dụng các phương pháp thu gom rác thải, xử lý bằng phương pháp chôn lấp, phương pháp này thì rất dễ làm, chi phí thấp, tiêu tốn ít năng lượng …nhưng, nhược điểm lớn nhất đó là rác vô cơ khó phân hủy, xử lý không triệt để, cần mặt bằng diện tích đất rộng lớn, quy mô; đồng thời có thời hạn lưu giữ rác lâu trong lòng đất, gây hậu quả lớn đến môi trường và nguồn nước

Việc thải rác ra môi trường đều xuất phát từ con người, chính con người lại lĩnh những hậu quả từ việc thải rác ra môi trường. Vậy chúng ta cần những giải pháp nào để xử lý hiệu quả rác thải từ con người ra môi trường, bảo vệ sinh thái và nguồn nước trong thời gian tới.

Một là, các cơ quan chức năng của nhà nước ở địa phương cần quan tâm, quy hoạch một cách có hệ thống các nhà máy xử lý rác thải, sao cho xử lý một cách khoa học và triệt để các loại rác do con người thải ra môi trường. Tổ chức thu gom, phân loại rác thải trước rồi mới xử lýĐây là phương pháp xử lý rác thải truyền thống, có thể tiêu hủy được lượng lớn rác thải. Rác sinh hoạt từ mọi nhà được thu gom mang đến bãi rác để xử lý.

Hai là, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong công tác giáo dục, tuyên truyền cho người dân nâng cao ý thức phân loại rác thải từ đầu nguồn như vô cơ và hữu cơ thành các loại riêng, để dễ dàng thu gom và đẽ thanh xử lý an toàn; đồng thời thực hiện việc giải pháp xã hội hóa trong công tác thu gom và xử lý rác thải.

Ba là, thực hiện đúng phương châm, phương pháp trong xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, bảo đảm sạch xóm, ấp, sạch ngõ, sạch nhà, sạch đường phố. Thu gom đến đâu, xử lý đến đó, không để ứ đọng rác, gây ra các mùi hôi thối, ô nhiễm môi trường không khí.

Bốn là, khuyến khích nhân dân sử dụng hóa chất để xử lý rác thải hữu cơ có nhiều trên thị trường để giảm tải lượng rác hữu cơ thải ra môi trường sinh thái gây ô nhiễm không khí, nguồn nước. Một số loại chế phẩm như: BioStreme 9442F, hóa chất xử lý mùi hôi nước thải, bãi rác ô nhiễm GEM-K, hóa chất EM WAT-1, hóa chất khử mùi Clean Air,.. có thể tiêu hủy được mùi hôi thối từ bãi rác. Nhưng khi sử dụng các loại hóa chất này phải thực hiện đúng quy trình bảo hộ lao động, vì chúng có thể gây hại trực tiếp đến sức khỏe con người. Chính vì vây, biện pháp xử lý rác thải này cũng chưa triệt để hoàn toàn.

Năm là, đối với các loại chất thải rắn, chất vô cơ chúng ta có thể sử dụng các loại lò đốt rác thải rắn để xử lý hoàn toàn, phương pháp này thường được sử dụng ở các nhà máy xử lý rác hoặc có thể  sử dụng phạm vi nhỏ, nhằm loại bỏ hoàn toàn rác thải rắn và rác vô cơ. Tuy nhiên, phương pháp này khá tiêu tốn nhiều chi phí và năng lượng, dễ gây hại đến sức khỏe người trực tiếp thực hiện thanh, xử lý.

Nếu thực hiện tốt các giải pháp trên, là góp phần hạn chế rác thải ra môi trường, tạo bầu không khí trong lành, nơi ở, nơi sinh hoạt, xây dựng văn hóa công đồng dân cư, đời sống văn minh trong những năm tới.

Bài và ảnh Vi Đồng

Thứ Bảy, 9 tháng 10, 2021

XÂY DỰNG PHONG CÁCH CỦA NGƯỜI ĐẢNG VIÊN THỜI 4.0

  


Đảng viên, hai từ thiêng liêng mà trong mỗi người cán bộ, công chức, viên chức (gọi chung là cán bộ, đảng viên) phải cật lực phấn đấu để được kết nạp vào tổ chức uy tín nhất, quyền lực cao nhất của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đến nay, cả nước có khoảng 5,3 triệu đảng viên chiếm khoảng 5,4% dân số cả nước. Tuy chỉ có số lượng rất ít so với tổng dân số cả nước nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo trong toàn hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng phong cách của người đảng viên thời 4.0 cần nhìn nhận về thực trạng, nguyên nhân và giải pháp trong thời gian tới. 

Học tập lý luận chính trị

Tại Điều 1, Điều lệ Đảng nêu rõ:

Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Tuyệt đại đa số đảng viên sau khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng thì đều có động cơ phấn đấu tốt, vì mục tiêu phát triển của tổ chức, của cơ quan, đơn vị; đóng góp rất lớn trách nhiệm của bản thân trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh về mọi mặt. Nhiều tấm gương đảng viên trẻ đã cống hiến sức trẻ cho tổ chức, nhiều việc làm hay, sáng kiến, kinh nghiệm, đã giúp cơ quan, đơn vị và tổ chức cơ sở đảng lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả, đạt nhiều thành công trong các lĩnh vực công tác. Bản thân họ cũng gặt hái được những kết quả có giá trị thực tiễn được tập thể cấp ủy, tổ chức đảng tín nhiệm, tôn vinh bầu là chiến sĩ thi đua, được cấp trên khen thưởng.

Tuy nhiên, có một bộ phận đảng viên, sau một thời gian dài phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhất là sau khi trở thành đảng viên chính thức của Đảng cộng sản Việt Nam, thì không ít người đã có biểu hiện thỏa mãn, dừng lại, không còn tâm huyết với vai trò là một đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức gương mẫu, đi đầu trong các hoạt động, công tác như khi chưa vào Đảng, mà các biểu hiện đó thường xuất hiên như: Sa sút mục tiêu phấn đấu, học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức, năng lực, tác phong công tác. Biểu hiện sa sút lớn nhất đó là: ngại học tập lý luận chính trị, học tập nâng cao nghiệp vụ, kiến thức về khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin; tác phong công tác không gần gũi, sâu sát quần chúng; kế hoạch công tác thì chung chung; tính chiến đấu, tính giáo dục tự phê bình và phê bình còn nhiều hạn chế.

Biểu hiện thứ nhất đó là ngại học tập lý luận chính trị: Thường xuất phát từ việc khi được cấp trên triệu tập tham gia các học các lớp bồi dưỡng về lý luận chính trị, giáo dục các chuyên đề thì một số đảng viên thường báo cáo với người quản lý trực tiếp là bản thân mình bận việc này, việc kia, không tham gia học tập được, nên xin nghỉ học; có những đảng viên tham gia học tập nhưng lại không bảo đảm về thời gian. Khi học tập xong, triển khai viết bài thu hoạch thường là nộp bài chậm, có trường hợp làm bài hời hợt, không đến nơi đến chốn, thiếu trách nhiệm với tổ chức, gần như không nhận thức được nội dung người dạy giới thiệu.

Biểu hiện thứ hai đó là: Trong điều kiện hiện nay, công nghệ máy tính, công nghệ thông tin phát triển từ giờ, từng ngày nhưng đảng viên còn thờ ơ, cá biệt có một số đảng viên là cán bộ chủ trì không chịu học tập về sử dụng công nghệ thông tin phục vụ ngay công việc của mình. Khi có công việc cấp trên giao xuống họ tìm mọi cách để lấp liếm, nhờ người này, người kia làm giúp, không tự tay mình làm báo cáo bằng văn bản điện tử; không nhận thức được việc có trình độ về công nghệ thông tin là giúp ích cho chính họ. Trong khi đó, 100% đảng viên trong cơ quan, đơn vị đều sử dụng điện thoại Smartphone thông minh, nếu nói về kỹ năng sử dụng các ứng dụng để đọc tin bài trên mạng xã hội và chơi game thì khỏi phải bàn đến, gần như đảng viên nào cũng có thể sử dụng một cách thành thạo. Tuy nhiên, khi lãnh đạo cơ quan, đơn vị đề nghị họ tham gia phối hợp với tổ chức để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội, trên internet thì họ lại im thin thít. Các bài viết do lãnh đạo cơ quan, đơn vị viết, đăng và chia sẻ đến máy điện thoại của đảng viên, gần như họ đều không đọc, bỏ qua không có một một nút thích, chứ chưa nói là một nút chia sẻ. Thật đáng buồn.

Biểu hiện sa sút tiếp theo đó là: Khi tham gia sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt cấp chi bộ, nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, thực hiện phê bình và phê bình sát nhất, đa số đảng viên đều có nhận thức chung về xây dựng đảng; một bộ phận đảng viên thực hiện phê bình và phê bình ở chi bộ còn hạn chế, thậm chí còn yếu kém, rất ít khi tham gia phát biểu xây dựng nghị quyết. Có những đảng viên trong cả một năm (12 tháng) tham gia sinh hoạt chi bộ số lần phát biểu xây dựng nghị quyết của cấp ủy, chi bộ chỉ đếm trên đầu ngón tay. Cũng có đảng viên sau khi được bí thư cấp ủy gợi ý nhiều lần thi cũng miễn cưỡng tham gia góp ý vài ba điều gọi là cho có. Nội dung phát biểu thì chung chung, gần như nghĩ gì phát biểu đó, không có sự chuẩn bị, thấy có việc làm tốt cũng không đồng tình, thấy có khuyết điểm, hạn chế cũng không hề phê bình đồng chí mình làm sai, vi phạm, biểu hiện của trung bình chủ nghĩa. Nếu tình trạng trên kéo dài sẽ làm cho tổ chức đảng cấp cơ sở, nhất là cấp chi bộ thiếu đi công cụ sắc bén của mình đó là tính chiến đấu, tính giáo dục, làm cho đảng viên dần phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của mình trước Đảng, trước tổ chức; không nhận thức được đâu là cái đúng, cái sai trong guồng máy vận động phát triển. Dễ dãi bỏ qua những khuyết điểm, hành vi vi phạm của đồng chí, đồng nghiệp trong cơ quan, đơn vị mình công tác.

Biểu hiện nữa đó là: Một số đảng viên khi tổ chức sinh hoạt Đảng thì không bày tỏ quan điểm của mình, nhưng khi rời khỏi cuộc họp thì lại phát biểu với một suy nghĩ luồng ý kiến khác không chính thống, gây dư luận không tốt trong nội bộ cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng cấp mình.

Từ thực trạng trên, cho thấy có những nguyên nhân sau:

- Cấp ủy, người đứng đầu các tổ chức đảng chưa chú trọng công tác giáo dục, nâng cao nhận thức lý luận chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên thuộc quyền; còn biểu hiện qua loa, đại khái, chủ quan đơn giản trong tổ chức học tập lý luận chính trị, kiểm tra, đánh giá, nhận xét kết quả hoàn thành nhiệm vụ học tập của cán bộ, đảng viên.

- Vai trò của đảng viên trong đấu tranh tự phê bình và phê bình; tính chiến đấu của đảng viên trong tổ chức đảng chưa được phát huy, chưa thực sự được coi trọng, để phát hiện kịp thời những nhân tố phát sinh, nhất là nhân tố tiêu cực, vi phạm cần phải xử lý ở cơ sở.

- Đảng viên chưa được phát huy và thực hiện đầy đủ vai trò tiên phong, gương mẫu trong học tập, công tác, tu dưỡng rèn luyện phẩm chất chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tác phong, phong cách công tác; chưa thực sự là chiến sĩ cách mạng đi đầu trong công cuộc đổi mới của đất nước do Đảng lãnh đạo; chưa thực hiện đầy đủ yêu cầu "Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân".

- Đảng viên chưa thực hiện đầy đủ như những gì đã cam kết trong đơn xin vào đảng của họ là thừa nhận và tự nguyện chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

- Đảng viên chưa thực sự có chứng kiến riêng của mình còn biểu hiện sa sút về ý chí độc lập, tự chủ của bản thân; chưa nêu cao tinh thần nêu gương về tác phong công tác, tiêu biểu về đạo đức và lối sống; gắn bó mật thiết với nhân dân; chưa có tinh thần sẵn lòng phụng sự tổ chức, phụng sự Đảng, phụng sự nhân dân.

Một số giải pháp thực hiện nhiệm vụ của đảng viên trong thời gian tới.

- Tăng cường công tác giáo dục, tổ chức quán triệt cho toàn bộ đảng viên học tập, nghiên cứu lại Điều lệ Đảng, để mỗi đảng viên phải luôn tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

- Xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể trong từng giai đoạn, từng thời điểm để khuyến khích, động viên đảng viên không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.

- Tạo điều kiện thuận lợi để đảng viên phát huy tối đa khả năng, năng lực công tác, phương pháp công tác, có trách nhiệm cao trước Đảng, trước tổ chức; có lối sống hiện đại của con người mới XHCN. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

- Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đảng viên; có giáo dục, có kiểm tra; có đánh giá, có nhận xét đúng về năng lực của cán bộ một cách chính xác tích cực, thực sự là hạt nhân chính trị của Đảng, để mỗi cán bộ đảng viên tham gia tích cực vào xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng.

 

Để cán bộ, đảng viên ở cơ sở trong giai đoạn cách mạng mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư (4.0), đảng viên không thể đứng ngoài cuộc, mỗi đồng chí cần phải nêu cao tinh thần đọc lập, tự chủ, tích cực tự học tập để nâng cao trình độ, phục vụ cho nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị đang công tác và của chính bản thân mình trong thời gian tới. Qua đó khẳng định được phẩm chất, năng lực công tác của người cán bộ, đảng viên thời đại 4.0./.

Bài và ảnh của Vi Đồng

 

Thứ Năm, 30 tháng 9, 2021

BÀI HỌC BẢO VỆ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VIỆT NAM LÀ BẢO VỆ CHÍNH NGHĨA


Cây ớt của tôi


Cuộc đấu tranh, đấu trí bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ sự thật giá trị lịch sử là một cuộc chiến không bao giờ mới, nhưng vấn đề bảo vệ giá trị lịch sử đặt gia yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Trên góc độ cá nhân tôi rất suy nghĩ về các bài viết trên báo và mạng xã hội về một bộ phim mà do Trung Quốc phát hành "Quân đội Vương bài". Trong bài viết trước mình có đề cập đến 11 bộ phim nói đến quân đội Trung Quốc, trong đó có phim "Chiến Trường Sa" bối cảnh năm 1939, nội dung hư cấu không có thật.

Chúng ta có thể khái quát sơ bộ về lịch sử một chút: Kể đến những thập niên 50 của thế kỷ 20, Chiến tranh Thế giới nổ ra năm 1939-1945; Đức tấn công Ba Lan. Năm 1941, phát xít Đức tấn công xâm lược Liên Xô, khơi mào cho thế chiến thứ 2 bùng nổ; sau những thất bại nặng nề, Liên Xô đã lấy lại tinh thần, quyết chiến, giải phóng đất nước và các nước Đông Âu, khi Liên Xô tiến quân vào Beclin-Đức giải phóng hơn nửa châu Âu thoát khỏi thảm họa phát xít Đức. Quân đồng minh do Mỹ đứng đầu đánh chiếm Tây Âu khi phát xít Đức suy yếu, tiến về giải phóng phía Tây Đức. Sau khi tiến vào dinh lũy cuối cùng của chế độ phát xít Hitler - Đức, các bên đi đến thỏa thuận chia nước Đức thành 2 phía Đông Đức do Liên Xô chiếm giữ, Tây Đức do Mỹ và Đồng Minh chiếm giữ. Theo đó, Liên Xô tiếp tục tuyên chiến với quân Nhật, giải phóng vùng Viễn Đông và Mãn Châu Lý, tiêu diệt hơn 1 triệu quân Quan Đông của Nhật, chiến tranh Nga - Nhật kết thúc, Liên xô giành thắng lợi. Để đe doa hòa bình thế giới Mỹ đã ném hai quả bom xuống 2 thành phố của Nhật Bản là Hirosima và Nagasaki, làm hơn 200.000 người chết. Buộc Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Kết thúc chiến tranh, Liên Xô-Người anh cả của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đã lan tỏa niềm kiêu hãnh của mình bằng chiến thắng vệ quốc vĩ đại. Một loạt nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ra đời, một số quốc gia sáp nhập vào Liên Xô thành Liên bang XHCN Xô viết ra đời, tạo thành một Hệ thống khối các nước XHCN. Một số quốc gia ở Châu Á, Châu Mỹ, lần lượt giành được độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam ta (02/9/1945). Có thể khẳng định Cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Nhân dân Liên Xô là chiến thắng của chính nghĩa, của lương tri nhân loại trên thế giới, đã giải phóng Nhân dân Liên Xô và Đông Âu khỏi thảm họa phát xít. 

Tuy nhiên, hòa bình chưa được bao lâu, Liên Xô và các nước trong Hệ thống khối các nước XHCN phải đối mặt với rất nhiều vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị...đặc biệt là đối mặt về chính trị, vấn đề dân tộc, vấn đề lịch sử. Các nước phương Tây đứng đầu là Mỹ, quốc gia không bị ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ 2, giàu lên nhờ bán vũ khí, đã ra sức tuyên truyền giá trị Mỹ. Để tranh công với Liên Xô, Mỹ và các nước phương Tây đã ra sức sử dụng công cụ truyền thông, chiêu bài xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật và bôi nhọ Cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Nhân dân Liên Xô. Phá hoại an ninh chính trị và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Liên Xô. Với chiêu bài xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ, bóp méo sự thật, cộng với Đô la và các yếu tố khác Mỹ và các nước phương Tây đã làm sụp đổ Hệ thống XHCN ở Đông Âu và Liên Xô; Liên Xô tan rã tháng 12.1991, chấm dứt hơn 70 năm tồn tại của Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới.

Nhìn lại chặng đường lịch sử thế giới, có thể thấy Trung Quốc là một nước lớn, nhưng vẫn bị một quốc gia nhỏ hơn như Đế quốc Anh, Bồ Đào Nha, Nhật Bản đô hộ, mãi đến khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ II, Trung Quốc mới giành độc lập năm 1949, sau Việt Nam 4 năm. Nói theo cách của mình thì Trung Quốc vẫn là kẻ sinh sau đẻ muộn so với Việt Nam, là em của Việt Nam.

Sau khi Trung Quốc cải cách kinh tế năm 1978, hỗ trợ Kh'mer đỏ gây hấn với Việt Nam từ năm 1975-1978; gây chiến tranh biên giới với Việt Nam tháng 2/1979 nhằm lấy lòng Mỹ và phương Tây, tiếp tục kéo dài cuộc chiến sau đó thêm 10 năm nữa đến năm 1989.

Những năm đầu Trung Quốc mở cửa đất nước đã có của ăn, của để, khi kinh tế đã vững họ bắt đầu có xu hướng trỗi dậy hận thù dân tộc, bắt đầu xuất bản các bộ phim truyện, phim dài tập, nhắm vào quốc gia láng giềng chính là Nhật Bản. Sự hận thù dân tộc của Trung Quốc đến nỗi các kênh truyền hình từ Nhà nước đến tỉnh lẻ đều phát sóng phim chiến tranh Trung - Nhật, kể về tội ác man rợ của phát xít Nhật trong chiến tranh thế giới thứ II (đó là theo đạo diễn phim Trung Quốc), nhằm gieo rắc hận thù vào thế hệ trẻ của họ, khơi lại thù hận bị một quốc gia nhỏ bé Nhật Bản bên kia đại dương đô hộ, để họ một ngày nào đó báo thù cho cha ông họ đã từ bị kẻ thù giày xéo. Kể cả một số phim Trung Quốc phát tán và du nhập vào Việt Nam không ít lần tôi và các bạn đã xem trên nền tảng mạng xã hội và phim đĩa bán dạo.

Việt Nam ta là quốc gia láng giềng, núi liền núi, sông liền sông, bao đời sống bên cạnh một quốc gia to béo, đã nhiều lần tiến quân xâm lược và đô hộ lên tới hàng nghìn năm. Hết cuộc chiến lớn đến cuộc chiến nhỏ. Nhưng Việt Nam chúng ta vì thiện chí hòa bình chúng ta không mảy may hận thù dân tộc với người Trung Quốc, vẫn sống thuận hòa bên họ, mặc dù họ dùng nhiều mưu kế, âm mưu xảo quyệt đối với Việt Nam ta.

Vừa qua, trên nền tảng mạng xã hội Youtebe xuất hiện bộ phim "Quân đội Vương Bài", Bộ phim lấy mốc thời gian vào năm 1983, các nhân vật tham gia chiến đấu chống "quân địch" ám chỉ bộ đội Việt Nam và rà phá bom mìn tại Quảng Tây, một tỉnh của Trung Quốc giáp biên giới với Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh của Việt Nam. Bộ phim này nói về quá trình hình thành quân đội Trung Quốc chính quy, hiện đại, cơ giới hóa trong 40 năm trở lại đây. Trong bối cảnh và mốc thời gian này gợi cho chúng ta nhớ đến cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc (6 tỉnh biên giới) của nhân dân Việt Nam chống quân xâm lược Trung Quốc.

Trong đoạn giới thiệu phim có một số phân cảnh binh lính Trung Quốc chiến đấu với một lực lượng sử dụng súng tiểu liên AK, được ngụy trang trong lớp lá cây. Nhiều khung cảnh xuất hiện trong giới thiệu, quân đội Trung Quốc bắn pháo binh vào trận địa quân địch (ám chỉ bộ đội Việt Nam), bối cảnh phim gần giống với địa phận tỉnh Hà Giang - Việt Nam. Đây là địa danh được bộ đội ta chiến đấu chống quân Trung Quốc ở Thanh Thủy-Hà Giang 30 năm trước. Các trang phục mà các diễn viên Trung Quốc mặc trùng khớp với giai đoạn xâm lược biên giới Việt Nam năm 1979.

Điều đáng lên án ở đây là, trong phim họ gọi bộ đội Việt Nam là kẻ xâm lược, nhòm ngó đất Trung Quốc, phát động các cuộc gây rối ở biên giới Trung Quốc, buộc người Trung Quốc phải tự vệ. Đây là chi tiết sai sự thật lịch sử, đảo ngược mọi thứ, không thể chấp nhận được đối với một người yêu nước Việt Nam. Trung Quốc từ một kẻ đi xâm lược Việt Nam lại trở thành anh hùng bảo vệ đất nước trong con mắt giới trẻ và người dân của họ, thật là lố bịch. 

Điều thứ hai, Trung Quốc đang cố tình tạo ra cái cớ, nhằm gieo rắc hận thù vào thế hệ trẻ và nhân dân của họ, khơi lại thù hận bị một quốc gia nhỏ bé phía Nam (Việt Nam) gây hấn, rồi phải đem quân đi bảo vệ biên giới. Tiếp đó, Trung Quốc đang nhắm đến Trường Sa - Việt Nam, mà họ gọi là Nam Sa, họ cũng sẽ tạo ra một cái cớ, cái cớ đó cũng giống như ở biên giới phía Bắc nước ta năm xưa, rộng đường dư luận, để họ đưa quân xuống biển Đông để xâm lược quần đảo Trường Sa của chúng ta một cách hợp pháp, mà theo cách nói của họ là: "Thu hồi Nam Sa". Đây là hành động rất nguy hiểm.

Vậy chúng ta, cần đặt câu hỏi Trung Quốc đang chuẩn bị những thứ gì vậy? Hay đang sử dụng chiêu bài giống như Mỹ và phương Tây chống lại Liên Xô trước đây và Nga ngày nay, để xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử Việt Nam, bóp méo xuyên tạc cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc biên giới phía Bắc tháng 2 năm 1979 của quân và dân ta.

Có thể đánh giá rằng, các thế lực trong giới cầm quyền Bắc Kinh đang sử dụng chiêu bài tẩy não giới trẻ Trung Quốc, lấp liếm những khuyết tật của nhà cầm quyền Trung Quốc đã từng gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa đối với Nhân dân Việt Nam tháng 2 năm 1979; đồng thời nêu ý đồ rằng họ phát động chiến tranh với Việt Nam chẳng qua là do Việt Nam gây hấn với họ, chứ họ đâu có muốn làm vậy?

Sử dụng nghệ thuật điện ảnh để tuyên truyền, lấp liếm hành vi xâm lược một quốc gia có chủ quyền là hành động vô liêm sỉ, những hành động đó chúng ta là những người yêu nước cần phải nhận rõ bộ mặt thâm độc của ông bạn láng giềng xấu bụng, phải lên án không những ở trong nước mà còn ở lĩnh vực quốc tế để bảo vệ chủ quyền quốc gia, giá trị lịch sử cả thực địa và trên không mạng.

Thiết nghĩ, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ cần đủ tỉnh táo để nhận rõ bản chất, bộ mặt thật của phim ảnh, nghệ thuật của các nhà làm phim Trung Quốc, đang hằng ngày chĩa mũi nhọn vào Việt Nam để hòng lũng đoạn chính trị, tiến tới âm mưu xâm chiếm biển Đông. Chúng ta phải đoàn kết, làm thất bại mưu kế của họ, không bị bài học về "Nỏ thần" -Mỵ Châu, Trọng Thủy lặp lại lần nữa./.

Cảm xúc ngày cuối tuần. Vi Đồng


Thứ Sáu, 24 tháng 9, 2021

MÔ TÔ URAL CỦA NGA


Theo trang tin Sputnik của Nga đưa tin, mới đây một Công ty của Nga đã giới thiệu sản phẩm mới là Mô to Ural với tính năng vượt trội. Mô tô Ural mới có hệ thống treo Nitron được cải tiến, giá đỡ mui bổ sung, bộ bảo vệ cacte động cơ, hệ thống xả chuyên dụng dành cho xe địa hình, lốp thể thao Heidenau K 37 và bình xăng phụ. Tốc độ khi di chuyển trên chiếc mô tô của Nga là 65 dặm/giờ (khoảng 105 km một giờ), có thể tăng tốc lên 80 dặm/giờ (khoảng 130 km/giờ), với điều kiện đường cao tốc, tuy nhiên theo đánh giá của người sử dụng tốc độ 130km/h hơi khó đối với mô tô loại này.

Chiếc mô tô Ural mới đã mở rộng khả năng off-road của mẫu Gear Up cơ sở. Phiên bản GEO có bộ giảm xóc điều chỉnh Nitron, lốp Heidenau và hệ thống xả GPR (chỉ được phép sử dụng cho địa hình). Ngoài ra, xe còn được trang bị giá mới để hành lý trước và sau sidecar, thanh chống va đập, đèn chiếu sáng bổ sung, giá gắn GPS và khe cắm sạc USB kép. Giá của Ural Gear Up GEO khoảng 27 nghìn đô la cho một chiếc mô tô với một chiếc sidecar công suất 41 mã lực.

Bài và ảnh Vi Đồng sưu tầm


Mô tô Ural mới của Nga






SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ NHẬN DẠNG CỦA NGA, GIÚP AN TOÀN HƠN TRONG KINH DOANH


Mới đây, theo trang tin Sputnik của Nga đưa tin, để bảo đảm an toàn trong kinh doanh công ty kinh doanh lĩnh vực công nghệ, Công ty Satellite Innovation của Nga sẽ hỗ trợ Việt Nam trong hợp đồng thực hiện các giải pháp phần mềm, cho hệ thống giám sát video.

Camera giám sát ngoài trời. Ảnh Sputnik

Theo đó, Công ty Satellite Innovation của Nga sẽ cung cấp các Mô-đun nhận dạng người bằng khuôn mặt, xác định giới tính, tuổi tác, cảm xúc; Mô-đun biển số xe cho phép tự động tìm đối tượng xe ô tô có sẵn trong kho dữ liệu và chặn những chiếc xe ô tô không mong muốn. Các thiết bị này có thể phát hiện khói, báo cháy, đồ vật bị bỏ rơi và nơi tập trung đông người để đảm bảo an toàn. Các mô-đun này cũng có thể sử dụng trong lĩnh vực điều vận hậu cần, bán lẻ, xây dựng và y tế. Theo Công ty Satellite Innovation của Nga các thiết bị này giúp giảm chi phí và tăng lợi nhuận. Ví dụ, trong cửa hàng, máy phát hiện các kệ trống sẽ giúp bố trí hàng hóa kịp thời bổ sung, mô-đun theo dõi độ dài dòng người xếp hàng sẽ thông báo thời điểm cần mở thêm quầy thu ngân khác, tại công trường, mô-đun sẽ theo dõi xem tất cả công nhân có đội mũ bảo hiểm hay không, hoặc có thể sử dụng mô-đun để từ xa đo nhiệt độ vài chục người trong phòng.

Ngoài ra, Công ty Satellite Innovation cũng cho biết thêm, đã đóng góp vào cuộc chiến chống COVID-19gồm các loại mô-đun có thể nhận biết người có đeo mặt nạ hay không và mô-đun thông báo số người trong phòng vượt quá giới hạn cho phép. Công ty Satellite Innovation sẽ cung cấp khoảng hơn 20 mô-đun phân tích video. Ngoài phần mềm, Công ty Satellite Innovation cũng đang phát triển dòng đầu ghi video riêng cài đặt sản phẩm của họ và kết nối với hệ thống giám sát video; sản phẩm của rất tiện lợi và dễ sử dụng; người không có bất kỳ kiến ​​thức đặc biệt nào cũng có thể hiểu và tương tác với nó. Công ty Satellite Innovation cho biết đã bổ sung thêm tính năng cho người tiêu dùng tương tác với hệ thống không chỉ thông qua máy tính và ứng dụng di động trên điện thoại, mà còn thông qua các trình nhắn tin phổ biến như Telegram, Viber, Facebook.

Được biết, Công ty Satellite Innovation do các sinh viên Nga tốt nghiệp trường Đại học Quốc gia Perm thành lập năm 2008. Hiện giờ công ty nằm trong Top-3 các nhà phát triển hàng đầu ở Nga chuyên sản xuất các sản phẩm tương tự. Năm 2013, công ty đã thâm nhập vào thị trường Châu Âu, hiện sản phẩm của công ty được xuất khẩu tới hơn 70 quốc gia trên thế giới. Khi xuất khẩu ra nước ngoài, sản phẩm mang thương hiệu Eocortex. Năm 2020 Satellite Innovation bắt đầu tích cực quảng bá sản phẩm của mình trong khu vực Đông Nam Á, doanh số bán sản phẩm đã tăng gấp đôi so với năm 2019. Hiện nay, sản phẩm camera với phần mềm theo dõi của Công ty đang hoạt động tại các khu vực kinh doanh và dân cư, tại các ga đường sắt ở Singapore, Đài Bắc, Hồng Kông; đồng thời đang phát triển video giám sát cho các hệ thống ngân hàng ở Thái Lan, bắt đầu hợp tác với Indonesia và Malaysia".

Tại Việt Nam, công ty Satellite Innovation đang thực hiện bốn dự án trong lĩnh vực an toàn đô thị, cung cấp các sản phẩm cao cấp với nhiều chức năng nhất cho ngành khách sạn, bán lẻ và chăm sóc sức khỏe. Công ty rất quan tâm mở rộng hợp tác với Việt Nam, nhằm gia tăng phổ biến các sản phẩm của mình.

Tin và ảnh: Vi Đồng tổng hợp

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM “LẤY DÂN LÀM GỐC” CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG XHCN HIỆN NAY

  Quan điểm của Đảng ta chỉ rõ “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi l...