Thứ Năm, 18 tháng 11, 2021

LỢI ÍCH QUỐC GIA-DÂN TỘC

 


Có thể khẳng định: Lợi ích Quốc gia - dân tộc là một nguyên tắc cơ bản cốt lõi trong quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Vì một Việt Nam phát triển, độc lập, tự chủ, giàu mạnh, hùng cường, tin cậy và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

HOA GIẤY

Chúng ta nhìn nhận về lịch sử, có thể thấy quan hệ bang giao với các quốc gia khi đất nước được độc lập, Việt Nam luôn thể hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực, tự cường; giải quyết khôn khéo các vấn đề quốc tế, được sự đồng tình ủng hộ rất lớn của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là trong hai Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước; kể cả là chính nhân dân yêu chuộng hòa bình trong chính quốc gia đó, đã góp phần đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này, đến thắng lợi khác, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước; sau khi thông nhất cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế-xã hội, mặc dù đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn sau chiến tranh. Trong khi đó, nhân dân ta tiếp tục phải đối đầu với cuộc chiến tranh vệ quốc bảo vệ biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam, đất nước bị bao vây cấm vận kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng, kiệt quệ, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phù hợp với yên cầu thực tiễn của cách mạng.

Năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá về những sai lầm, khuyết điểm về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đặc biệt là bệnh chủ quan, duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận. Từ thực tiễn Đại hội VI đã rút ra những bài học quan trọng, quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, đề  ra đường lối đổi mới đất nước, về cả tư duy, nhận thức và hành động, nhất là tư duy về phát triển kinh tế xã hội, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế nhiều thành phần, thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 35 năm kiên trì đường lối đổi mới qua các kỳ Đại hội Đảng, đất nước Việt Nam từ một quốc gia đói nghèo, lạc hậu vươn lên trở thành một quốc gia có nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, trở thành quốc gia có vị trí ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế, với tất cả các tiêu chí về chính trị, kinh tế, xã hội nhất là về con người, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Có được kết quả trên:

Thứ nhất, đổi mới tư duy theo quan điểm “đa phương hóa, đa dạng hóa” trong quan hệ đối ngoại, với mục tiêu “thêm bạn, bớt thù”, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để phát triển đất nước, trong đó dựa vào nội lực là chính. Sự phát triển tư duy đối ngoại từ “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” của Đại hội VI đến “Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” Đại hội VII, để nước ta hội nhập sâu, rộng vào cộng đồng quốc tế; đồng thời đưa ra lý luận về nhận thức “đối tượng, đối tác” trong quan hệ quốc tế, nhất là tư duy về kinh tế. Việt Nam chủ trương cùng với quá trình triển khai các nội dung cụ thể trong đường lối đối ngoại với chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, tư duy của Đảng về “bạn”, “thù” dần được hoàn thiện, thay thế bằng cụm từ “đối tác”, “đối tượng” với nội hàm cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ: “Đối tác của chúng ta là bất kể ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, mong muốn thiết lập và xây dựng quan hệ hữu nghị, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam; đối tượng ta cần kiên quyết đấu tranh là những ai tìm cách chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta. Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có những mặt cần tranh thủ và trong một số đối tác vẫn có thể có những khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”. Đảng ta tiếp tục khẳng định trong các kỳ Đại hội IX đến Đại hội XIII chủ trương nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực tự cường, nâng cao tư duy đối ngoại “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, thể hiện rõ lập trường, bước đi vững chắc, thể hiện vị thế, uy tín, tiềm lực kinh tế, trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế; các cam kết đó đều được cộng đồng quốc tế công nhận.

Thứ hai, trong phát triển kinh tế xã hội đất nước luôn lấy mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, con người là trung tâm; tăng cường tiềm lực kinh tế gắn với tiềm lực quốc phòng, an ninh; chú trọng công tác bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, an sinh xã hội để phát triển đất nước.

Thứ ba, giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế-xã hội gắn liền với công tác bảo vệ môi trường, tài nguyên; phân bố giữa các vùng miền hợp lý để thúc đẩy kinh tế truyền thống địa phương, với hiện đại và kinh tế xanh, bền vững.

Thứ tư, triển khai đồng bộ các mục tiêu quốc gia hằng năm, nhiệm kỳ và giai đoạn, xây dựng lộ trình để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước; đồng thời triển khai thực hiện tốt các cam kết quốc tế về mục tiêu thiên niên kỷ đạt hiệu quả cao, đã góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ năm, coi trọng phát triển kinh tế-xã hội trong nước luôn gắn bó chặt chẽ với lợi ích của nhân dân, tạo việc làm và thu nhập, nâng cao đời sống của người lao động; đồng thời đồng hành cùng đất nước xây dựng mục tiêu chung. Chính phủ tham gia ký kết hợp tác với các tổ chức thương mại quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam hoặc đầu tư ra nước ngoài đều xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng.

Để bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc của Việt Nam trong Hội nhập kinh tế quốc tế cần phải hoàn thiện thể chế kinh tế và pháp luật trên một số giải pháp sau:

1. Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là nhu cầu, vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân dân ta chủ động hội nhập sâu, rộng kinh tế quốc tế.

2. Căn cứ Nghị quyết của Đại hội XIII của Đảng về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo, cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả. Trong khi hình thành chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự phát triển của các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải, năng lượng và môi trường... là những lĩnh vực quan trọng mà ta còn yếu kém.

3. Chủ động và khẩn trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hóa và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn ở trong nước cũng như trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

4. Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công nghệ, vốn, bất động sản...; tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng.

5. Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực , vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những tiêu chuẩn chung nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm được kỹ năng thương thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó, cần hết sức coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao.

6. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại. Cũng như trong lĩnh vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi, bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.

7. Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ quan quốc phòng và an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình hội nhập.

8. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống Luật pháp của Việt Nam bảo đảm tính đồng bộ cao, là cơ sở pháp lý để quản lý kinh tế - xã hội; tạo hành lang thuận lợi để các thành phần kinh tế trong nước phát triển, đồng thời có cơ chế hợp tác để doanh nghiệp Việt Nam vươn ra đầu tư ra nước ngoài. Tích cực tham gia hội nhập sâu rộng vào các tổ chức kinh tế mà Việt Nam tham gia như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); TPP, EVFTA, AFTA, APEC, ASEAN .

9. Thường xuyên kiện toàn ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực, uy tín và thẩm quyền giúp Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế.

Việt Nam là một quốc gia gần 100 triệu dân, tỷ lệ dân số trẻ cao, là một thị trường tiềm năng, cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển kinh tế. Với lợi thế và tiềm năng lớn đang tạo thuận lợi, cơ hội rất lớn cho đất nước hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, tuy nhiên song thách thức cũng không hề nhỏ. Đường lối đối ngoại đúng đắn “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, song phải “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi” trong tình hình mới, để sức mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục được tỏa sáng trên trường quốc tế. Đây sẽ là cơ sở vững chắc cho phát huy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa kết hợp với sức mạnh thời đại để đẩy mạnh phát triển đất nước nhanh và bền vững, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 Bài Vi Đồng

Thứ Hai, 11 tháng 10, 2021

RÁC VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

  

Để mỗi người bảo vệ sức khỏe có lẽ điều quan tâm không phải là vật chất cao sang gì mà chỉ cần mỗi ngày được hít thở bầu không khí trong lành, tận hưởng cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, đó là điều mong ước chung của mỗi chúng ta, hãy trân quý cuộc sống khi chúng ta còn có thể. 

Trồng Hoa cây cảnh

Tuy nhiên, rác thải là một vấn đề môi trường cần được đề cập một cách nghiêm túc. Trong thời gian gần đây, rác thải nói chung, rác thải sinh hoạt nói riêng đang là vấn đề nóng trong công tác bảo vệ môi trường sống hiện nay. Nếu như cuộc sống của chúng ta có nhiều mối đe dọa, nhưng có lẽ mối đe dọa hiện hữu nhất, trong đời sống không gì khác chính là Rác.

Rác có thể phân ra nhiều loại như: rác thải công nghiệp, rác thải nông nghiệp, rác thải Y tế, rác thải xây dựng, rác thải sinh hoạt…, trong đó rác thải sinh hoạt là vấn đề chúng ta bàn tới và tìm giải pháp bức thiết nhất. Rác sinh hoạt được phân ra nhiều dạng khác nhau trong đó có rác vô cơ và rác hữu cơ. Đối với rác vô cơ nếu biết phân loại thì xử lý chúng có thể tái chế, hoặc sử dụng các phương pháp nhiệt để thay đổi trạng thái, tính chất của chúng, nhược điểm lớn nhất đó là khi xử lý rác vô cơ chúng ta thường tiêu tốn nhiều năng lượng, công sức, giải pháp khó hơn… đối với rác hữu cơ việc xử lý cũng rất thuận lợi nếu biết phân loại từ nguồn, có thể tận dụng để làm phân bón hữu cơ, tiêu hủy dễ dàng hơn rác vô cơ, đỡ tiêu tốn năng lượng, công sức hơn và đem lại môi trường sinh thái sạch hơn.

Vấn đề đặt ra, các trạng thái xử lý rác vô cơ khi chúng ta sử dụng phương pháp nhiệt thì thường tạo ra các loại độc tố nguy hại, để loại bỏ các độc tố đó buộc phải chi phí lớn, tiêu tốn nhiều năng lượng; nếu chuyển hóa sang một trạng thái khác thành các sản phẩm an toàn hơn, thì nguy cơ những sản phẩm cuối cùng của nó sẽ không còn khả năng phân hủy, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, sinh thái.

Hiện nay, đa số các công ty môi trường đang sử dụng các phương pháp thu gom rác thải, xử lý bằng phương pháp chôn lấp, phương pháp này thì rất dễ làm, chi phí thấp, tiêu tốn ít năng lượng …nhưng, nhược điểm lớn nhất đó là rác vô cơ khó phân hủy, xử lý không triệt để, cần mặt bằng diện tích đất rộng lớn, quy mô; đồng thời có thời hạn lưu giữ rác lâu trong lòng đất, gây hậu quả lớn đến môi trường và nguồn nước

Việc thải rác ra môi trường đều xuất phát từ con người, chính con người lại lĩnh những hậu quả từ việc thải rác ra môi trường. Vậy chúng ta cần những giải pháp nào để xử lý hiệu quả rác thải từ con người ra môi trường, bảo vệ sinh thái và nguồn nước trong thời gian tới.

Một là, các cơ quan chức năng của nhà nước ở địa phương cần quan tâm, quy hoạch một cách có hệ thống các nhà máy xử lý rác thải, sao cho xử lý một cách khoa học và triệt để các loại rác do con người thải ra môi trường. Tổ chức thu gom, phân loại rác thải trước rồi mới xử lýĐây là phương pháp xử lý rác thải truyền thống, có thể tiêu hủy được lượng lớn rác thải. Rác sinh hoạt từ mọi nhà được thu gom mang đến bãi rác để xử lý.

Hai là, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong công tác giáo dục, tuyên truyền cho người dân nâng cao ý thức phân loại rác thải từ đầu nguồn như vô cơ và hữu cơ thành các loại riêng, để dễ dàng thu gom và đẽ thanh xử lý an toàn; đồng thời thực hiện việc giải pháp xã hội hóa trong công tác thu gom và xử lý rác thải.

Ba là, thực hiện đúng phương châm, phương pháp trong xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, bảo đảm sạch xóm, ấp, sạch ngõ, sạch nhà, sạch đường phố. Thu gom đến đâu, xử lý đến đó, không để ứ đọng rác, gây ra các mùi hôi thối, ô nhiễm môi trường không khí.

Bốn là, khuyến khích nhân dân sử dụng hóa chất để xử lý rác thải hữu cơ có nhiều trên thị trường để giảm tải lượng rác hữu cơ thải ra môi trường sinh thái gây ô nhiễm không khí, nguồn nước. Một số loại chế phẩm như: BioStreme 9442F, hóa chất xử lý mùi hôi nước thải, bãi rác ô nhiễm GEM-K, hóa chất EM WAT-1, hóa chất khử mùi Clean Air,.. có thể tiêu hủy được mùi hôi thối từ bãi rác. Nhưng khi sử dụng các loại hóa chất này phải thực hiện đúng quy trình bảo hộ lao động, vì chúng có thể gây hại trực tiếp đến sức khỏe con người. Chính vì vây, biện pháp xử lý rác thải này cũng chưa triệt để hoàn toàn.

Năm là, đối với các loại chất thải rắn, chất vô cơ chúng ta có thể sử dụng các loại lò đốt rác thải rắn để xử lý hoàn toàn, phương pháp này thường được sử dụng ở các nhà máy xử lý rác hoặc có thể  sử dụng phạm vi nhỏ, nhằm loại bỏ hoàn toàn rác thải rắn và rác vô cơ. Tuy nhiên, phương pháp này khá tiêu tốn nhiều chi phí và năng lượng, dễ gây hại đến sức khỏe người trực tiếp thực hiện thanh, xử lý.

Nếu thực hiện tốt các giải pháp trên, là góp phần hạn chế rác thải ra môi trường, tạo bầu không khí trong lành, nơi ở, nơi sinh hoạt, xây dựng văn hóa công đồng dân cư, đời sống văn minh trong những năm tới.

Bài và ảnh Vi Đồng

Thứ Bảy, 9 tháng 10, 2021

XÂY DỰNG PHONG CÁCH CỦA NGƯỜI ĐẢNG VIÊN THỜI 4.0

  


Đảng viên, hai từ thiêng liêng mà trong mỗi người cán bộ, công chức, viên chức (gọi chung là cán bộ, đảng viên) phải cật lực phấn đấu để được kết nạp vào tổ chức uy tín nhất, quyền lực cao nhất của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đến nay, cả nước có khoảng 5,3 triệu đảng viên chiếm khoảng 5,4% dân số cả nước. Tuy chỉ có số lượng rất ít so với tổng dân số cả nước nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo trong toàn hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng phong cách của người đảng viên thời 4.0 cần nhìn nhận về thực trạng, nguyên nhân và giải pháp trong thời gian tới. 

Học tập lý luận chính trị

Tại Điều 1, Điều lệ Đảng nêu rõ:

Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Tuyệt đại đa số đảng viên sau khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng thì đều có động cơ phấn đấu tốt, vì mục tiêu phát triển của tổ chức, của cơ quan, đơn vị; đóng góp rất lớn trách nhiệm của bản thân trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh về mọi mặt. Nhiều tấm gương đảng viên trẻ đã cống hiến sức trẻ cho tổ chức, nhiều việc làm hay, sáng kiến, kinh nghiệm, đã giúp cơ quan, đơn vị và tổ chức cơ sở đảng lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả, đạt nhiều thành công trong các lĩnh vực công tác. Bản thân họ cũng gặt hái được những kết quả có giá trị thực tiễn được tập thể cấp ủy, tổ chức đảng tín nhiệm, tôn vinh bầu là chiến sĩ thi đua, được cấp trên khen thưởng.

Tuy nhiên, có một bộ phận đảng viên, sau một thời gian dài phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhất là sau khi trở thành đảng viên chính thức của Đảng cộng sản Việt Nam, thì không ít người đã có biểu hiện thỏa mãn, dừng lại, không còn tâm huyết với vai trò là một đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức gương mẫu, đi đầu trong các hoạt động, công tác như khi chưa vào Đảng, mà các biểu hiện đó thường xuất hiên như: Sa sút mục tiêu phấn đấu, học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức, năng lực, tác phong công tác. Biểu hiện sa sút lớn nhất đó là: ngại học tập lý luận chính trị, học tập nâng cao nghiệp vụ, kiến thức về khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin; tác phong công tác không gần gũi, sâu sát quần chúng; kế hoạch công tác thì chung chung; tính chiến đấu, tính giáo dục tự phê bình và phê bình còn nhiều hạn chế.

Biểu hiện thứ nhất đó là ngại học tập lý luận chính trị: Thường xuất phát từ việc khi được cấp trên triệu tập tham gia các học các lớp bồi dưỡng về lý luận chính trị, giáo dục các chuyên đề thì một số đảng viên thường báo cáo với người quản lý trực tiếp là bản thân mình bận việc này, việc kia, không tham gia học tập được, nên xin nghỉ học; có những đảng viên tham gia học tập nhưng lại không bảo đảm về thời gian. Khi học tập xong, triển khai viết bài thu hoạch thường là nộp bài chậm, có trường hợp làm bài hời hợt, không đến nơi đến chốn, thiếu trách nhiệm với tổ chức, gần như không nhận thức được nội dung người dạy giới thiệu.

Biểu hiện thứ hai đó là: Trong điều kiện hiện nay, công nghệ máy tính, công nghệ thông tin phát triển từ giờ, từng ngày nhưng đảng viên còn thờ ơ, cá biệt có một số đảng viên là cán bộ chủ trì không chịu học tập về sử dụng công nghệ thông tin phục vụ ngay công việc của mình. Khi có công việc cấp trên giao xuống họ tìm mọi cách để lấp liếm, nhờ người này, người kia làm giúp, không tự tay mình làm báo cáo bằng văn bản điện tử; không nhận thức được việc có trình độ về công nghệ thông tin là giúp ích cho chính họ. Trong khi đó, 100% đảng viên trong cơ quan, đơn vị đều sử dụng điện thoại Smartphone thông minh, nếu nói về kỹ năng sử dụng các ứng dụng để đọc tin bài trên mạng xã hội và chơi game thì khỏi phải bàn đến, gần như đảng viên nào cũng có thể sử dụng một cách thành thạo. Tuy nhiên, khi lãnh đạo cơ quan, đơn vị đề nghị họ tham gia phối hợp với tổ chức để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội, trên internet thì họ lại im thin thít. Các bài viết do lãnh đạo cơ quan, đơn vị viết, đăng và chia sẻ đến máy điện thoại của đảng viên, gần như họ đều không đọc, bỏ qua không có một một nút thích, chứ chưa nói là một nút chia sẻ. Thật đáng buồn.

Biểu hiện sa sút tiếp theo đó là: Khi tham gia sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt cấp chi bộ, nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, thực hiện phê bình và phê bình sát nhất, đa số đảng viên đều có nhận thức chung về xây dựng đảng; một bộ phận đảng viên thực hiện phê bình và phê bình ở chi bộ còn hạn chế, thậm chí còn yếu kém, rất ít khi tham gia phát biểu xây dựng nghị quyết. Có những đảng viên trong cả một năm (12 tháng) tham gia sinh hoạt chi bộ số lần phát biểu xây dựng nghị quyết của cấp ủy, chi bộ chỉ đếm trên đầu ngón tay. Cũng có đảng viên sau khi được bí thư cấp ủy gợi ý nhiều lần thi cũng miễn cưỡng tham gia góp ý vài ba điều gọi là cho có. Nội dung phát biểu thì chung chung, gần như nghĩ gì phát biểu đó, không có sự chuẩn bị, thấy có việc làm tốt cũng không đồng tình, thấy có khuyết điểm, hạn chế cũng không hề phê bình đồng chí mình làm sai, vi phạm, biểu hiện của trung bình chủ nghĩa. Nếu tình trạng trên kéo dài sẽ làm cho tổ chức đảng cấp cơ sở, nhất là cấp chi bộ thiếu đi công cụ sắc bén của mình đó là tính chiến đấu, tính giáo dục, làm cho đảng viên dần phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của mình trước Đảng, trước tổ chức; không nhận thức được đâu là cái đúng, cái sai trong guồng máy vận động phát triển. Dễ dãi bỏ qua những khuyết điểm, hành vi vi phạm của đồng chí, đồng nghiệp trong cơ quan, đơn vị mình công tác.

Biểu hiện nữa đó là: Một số đảng viên khi tổ chức sinh hoạt Đảng thì không bày tỏ quan điểm của mình, nhưng khi rời khỏi cuộc họp thì lại phát biểu với một suy nghĩ luồng ý kiến khác không chính thống, gây dư luận không tốt trong nội bộ cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng cấp mình.

Từ thực trạng trên, cho thấy có những nguyên nhân sau:

- Cấp ủy, người đứng đầu các tổ chức đảng chưa chú trọng công tác giáo dục, nâng cao nhận thức lý luận chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên thuộc quyền; còn biểu hiện qua loa, đại khái, chủ quan đơn giản trong tổ chức học tập lý luận chính trị, kiểm tra, đánh giá, nhận xét kết quả hoàn thành nhiệm vụ học tập của cán bộ, đảng viên.

- Vai trò của đảng viên trong đấu tranh tự phê bình và phê bình; tính chiến đấu của đảng viên trong tổ chức đảng chưa được phát huy, chưa thực sự được coi trọng, để phát hiện kịp thời những nhân tố phát sinh, nhất là nhân tố tiêu cực, vi phạm cần phải xử lý ở cơ sở.

- Đảng viên chưa được phát huy và thực hiện đầy đủ vai trò tiên phong, gương mẫu trong học tập, công tác, tu dưỡng rèn luyện phẩm chất chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tác phong, phong cách công tác; chưa thực sự là chiến sĩ cách mạng đi đầu trong công cuộc đổi mới của đất nước do Đảng lãnh đạo; chưa thực hiện đầy đủ yêu cầu "Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân".

- Đảng viên chưa thực hiện đầy đủ như những gì đã cam kết trong đơn xin vào đảng của họ là thừa nhận và tự nguyện chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

- Đảng viên chưa thực sự có chứng kiến riêng của mình còn biểu hiện sa sút về ý chí độc lập, tự chủ của bản thân; chưa nêu cao tinh thần nêu gương về tác phong công tác, tiêu biểu về đạo đức và lối sống; gắn bó mật thiết với nhân dân; chưa có tinh thần sẵn lòng phụng sự tổ chức, phụng sự Đảng, phụng sự nhân dân.

Một số giải pháp thực hiện nhiệm vụ của đảng viên trong thời gian tới.

- Tăng cường công tác giáo dục, tổ chức quán triệt cho toàn bộ đảng viên học tập, nghiên cứu lại Điều lệ Đảng, để mỗi đảng viên phải luôn tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

- Xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể trong từng giai đoạn, từng thời điểm để khuyến khích, động viên đảng viên không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.

- Tạo điều kiện thuận lợi để đảng viên phát huy tối đa khả năng, năng lực công tác, phương pháp công tác, có trách nhiệm cao trước Đảng, trước tổ chức; có lối sống hiện đại của con người mới XHCN. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

- Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đảng viên; có giáo dục, có kiểm tra; có đánh giá, có nhận xét đúng về năng lực của cán bộ một cách chính xác tích cực, thực sự là hạt nhân chính trị của Đảng, để mỗi cán bộ đảng viên tham gia tích cực vào xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng.

 

Để cán bộ, đảng viên ở cơ sở trong giai đoạn cách mạng mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư (4.0), đảng viên không thể đứng ngoài cuộc, mỗi đồng chí cần phải nêu cao tinh thần đọc lập, tự chủ, tích cực tự học tập để nâng cao trình độ, phục vụ cho nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị đang công tác và của chính bản thân mình trong thời gian tới. Qua đó khẳng định được phẩm chất, năng lực công tác của người cán bộ, đảng viên thời đại 4.0./.

Bài và ảnh của Vi Đồng

 

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM “LẤY DÂN LÀM GỐC” CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG XHCN HIỆN NAY

  Quan điểm của Đảng ta chỉ rõ “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi l...